gioi thieu ve quang ngai
Tên gọi khác: Dân tộc Kinh. 3. Dân số: 73.594.341 người, chiếm 86,83% dân số toàn quốc (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). 4. Ngôn ngữ: Người Việt có tiếng nói và chữ viết riêng. Tiếng Việt nằm trongnhóm ngôn ngữ Việt Mường (ngữ hệ Nam Á).
Công ty TNHH TM-DV AN THÀNH. 568 Quang Trung - P.Nguyễn Nghiêm - TP. Quảng Ngãi - Tỉnh Quảng Ngãi. Điện thoại: 0909070905 - 0909497017. Website: tudonghoaquangngai.com.vn. Mail: tudonghoaquangngai@gmail.com. Công ty được thành lập vào ngày 07/11/2017. Mã số thuế:4300808035.
CÔNG TY LUẬT MIỀN TRUNG. Địa chỉ: Tầng 2, Tòa nhà Legal Center, Số 112 Đinh Tiên Hoàng, TP. Quảng Ngãi. Email: luatsuquangngai.net@gmail.com. Tổng đài tư vấn: 1900 6577.
Xe đầu kéo, kéo rơ moóc chở ô tô bốc cháy trong đêm trên QL 1A, thuộc P.Phổ Thạnh, TX.Đức Phổ (Quảng Ngãi). Theo thông tin ban đầu, khoảng 22 giờ 35 ngày 17.10, xe đầu kéo BS 30U - 5065 kéo theo sơmi rơ moóc BS 29R - 2025 chở 7 ô tô do tài xế Võ Hữu Thông (42 tuổi, trú Thừa Thiên
Chào mừng Quý khách hàng đang ghé thăm website chính thức của TOYOTA TIẾN THU - QUẢNG NGÃI. Toyota Tiến Thu Quảng Ngãi (TTQN) là đại lý ủy quyền đạt tiêu chuẩn 3S toàn cầu thứ 80 của Toyota Việt Nam, toạ lạc tại ngã ba Mũi Tàu, tổ dân phố Trường Thọ Đông A, phường
mimpi melihat pohon berbuah lebat menurut islam. Thuyết Minh Về Quảng Ngãi ❤️️ 16 Bài Giới Thiệu Quảng Ngãi ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Viết Về Những Điểm Đến Nổi Tiếng Của Vùng Đất Trung Bộ. Giới Thiệu Về Thành Phố Quảng Ngãi – Mẫu 1Giới Thiệu Về Du Lịch Quảng Ngãi Hay Nhất – Mẫu 2Giới Thiệu Về Cảnh Đẹp Quê Hương Quảng Ngãi – Mẫu 3Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Quảng Ngãi – Mẫu 4Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Quảng Ngãi – Mẫu 5Thuyết Minh Về Đảo Lý Sơn Quảng Ngãi – Mẫu 6Thuyết Minh Về Biển Mỹ Khê Quảng Ngãi – Mẫu 7Giới Thiệu Về Thác Trắng Quảng Ngãi – Mẫu 8Thuyết Minh Về Chứng Tích Sơn Mỹ Quảng Ngãi – Mẫu 9Thuyết Minh Về Chùa Ông Quảng Ngãi – Mẫu 10Thuyết Minh Về Chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi – Mẫu 11Thuyết Minh Về Núi Thiên Ấn Quảng Ngãi – Mẫu 12Thuyết Minh Về Một Đặc Sản Ở Quảng Ngãi – Mẫu 13Bài Giới Thiệu Về Món Ăn Quảng Ngãi Học Sinh Giỏi – Mẫu 14Thuyết Minh Về Món Don Quảng Ngãi – Mẫu 15Bài Viết Giới Thiệu Về Quảng Ngãi Bằng Tiếng Anh – Mẫu 16 Giới Thiệu Về Thành Phố Quảng Ngãi – Mẫu 1 Bài giới thiệu về thành phố Quảng Ngãi dưới đây sẽ giúp bạn đọc có được những góc nhìn cụ thể về vùng đất này. Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng duyên hải miền Trung, lưng tựa vào dãy Trường Sơn, mặt hướng ra biển Đông, phía bắc giáp Quảng Nam, phía nam giáp Bình Định, phía tây nam giáp Kon Tum. Bờ biển Quảng Ngãi dài 135km, ngoài khơi có đảo Lý Sơn. Thành phố Quảng Ngãi được xây dựng trên bờ sông Trà Khúc. Từ xa xưa đã có những bánh xe nước to lớn quay suốt ngày đêm, vừa tô đẹp cho phong cảnh, vừa cấp nước cho các ruộng lúa, ruộng mía, nguyên liệu làm ra các loại đường cát, đường phèn, đường phổi, mạch nha, kẹo gương nổi tiếng đất nước. Quảng Ngãi có cảng Dung Quất, một cảng lớn có độ sâu lý tưởng đang được khởi công xây dựng. Trong tương lai Dung Quất sẽ trở thành một cảng dầu khí lớn nhất Việt Nam cùng với thành phố Vạn Tường hiện đại. Quảng Ngãi mảnh đất giàu tiềm năng đang chờ đợi đầu tư hơn nữa để trở thành một trong những trung tâm phát triển ở miền Trung và là điểm du lịch thu hút khách trong và ngoài nước. Quảng Ngãi là tỉnh có nền văn hoá lâu đời, nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh như cảnh đẹp núi Ấn, sông Trà Khúc, Cổ Luỹ Cô thôn rợp mát bóng dừa, bãi tắm Sa Huỳnh nước trong xanh, cát trắng, lộng gió, di tích kiến trúc thành cổ Châu Sa, nằm kề bên bờ bắc của sông Trà gần cửa biển, các di tích văn hoá Sa Huỳnh, mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng… Đến Quảng Ngãi, du khách có dịp thăm lại chiến trường xưa, những di tích lịch sử như căn cứ địa Ba Tơ, chiếc nôi cách mạng ở miền Trung; di tích khởi nghĩa Trà Bồng, vùng đất của những rừng quế bạt ngàn; chứng tích tội ác chiến tranh Sơn Mỹ; chiến thắng Ba Gia; chiến thắng Vạn Tường, với nhiều dấu tích chiến trường xưa oanh liệt. Quảng Ngãi là vùng đất có lợi thế về di sản văn hóa, biển đảo và là vùng đất của những biến động địa chất hàng triệu năm kiến tạo. Từ huyện đảo Lý Sơn sống động về văn hóa, lịch sử, hình thành từ những lớp nham thạch núi lửa trên biển, đến vùng ven biển, đồng bằng hay vùng núi cao đều chứa đựng những bí ẩn, đầy kỳ thú của vũ điệu thời gian từ thuở khởi nguồn sự sống. Quảng Ngãi đã chú trọng phát triển du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, vui chơi giải trí, thể thao, khám phá ở các bãi biển Mỹ Khê, Lý Sơn, Sa Huỳnh, Vạn Tường, Khe Hai… Bên cạnh đó, sản phẩm du lịch văn hóa, lịch sử gắn với lễ hội, tâm linh, nghiên cứu, giáo dục, thăm lại chiến trường xưa… đã và đang khai thác tốt. Đồng thời, du lịch sinh thái cũng đang phát triển mạnh tại các điểm như Suối Chí, Thác Trắng, Suối nước nóng Nghĩa Thuận, Khu Du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Bãi Dừa… Ngoài ra, sản phẩm du lịch cộng đồng gắn với các dịch vụ trải nghiệm như câu cá, mực, soi đêm, lặn ngắm san hô… ở các huyện có tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng như Lý Sơn, Bình Sơn; hay trải nghiệm văn hóa đồng bào Hrê và tìm hiểu Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ; du lịch miệt vườn tại huyện Nghĩa Hành, du lịch cộng đồng tại làng Gò Cỏ, phường Phổ Thạnh Phổ… cũng đã thu hút nhiều du khách. tặng bạn 💧 Giới Thiệu Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 💧 17 Bài Văn Hay Giới Thiệu Về Du Lịch Quảng Ngãi Hay Nhất – Mẫu 2 Tham khảo bài giới thiệu về du lịch Quảng Ngãi hay nhất và cùng khám phá những địa điểm hấp dẫn thu hút du khách đến với dải đất ven biển miền Trung. Nằm ở vùng đất duyên hải miền Trung với thời tiết nắng nóng khắc nghiệt, Quảng Ngãi khá mờ nhạt trên bản đồ du lịch Việt Nam. Nhưng những năm gần đây, Quảng Ngãi đã trở thành điểm đến lý tưởng và quen thuộc của những người đam mê du lịch. Đường bờ biển dài 135 km là một lợi thế rất lớn của Quảng Ngãi. Những bãi biển Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Khe Hai- Dung Quất, Minh Tân, Đức Minh, Tân Định là những bãi tắm nổi tiếng sạch đẹp và có tiềm năng rất lớn để phát triển thành khu du lịch nghỉ dưỡng. Đặc biệt, đảo Lý Sơn – “hòn ngọc” cách đất liền khoảng 25 km là một địa điểm thu hút lượng khách du lịch cực kì lớn. Đắm mình dưới làn nước trong veo, là một trải nghiệm mà bất cứ ai cũng muốn thử trong ngày hè oi bức. Không chỉ có những bãi tắm sạch đẹp, Quảng Ngãi còn nổi tiếng với những di tích văn hóa lịch sử, danh thắng đẹp nổi tiếng như di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, thành cổ Châu Sa, chứng tích Sơn Mỹ, di tích Ba Tơ, chùa Thiên Ấn. Quảng Ngãi từng là chiến trường ác liệt trong đạn bom, nay vươn mình trở thành vùng đất đầy hứa hẹn về đầu tư và du lịch. Nhiều tuyến du lịch mang đặc trưng Quảng Ngãi cũng đã được mở như TP. Quảng Ngãi – đảo Lý Sơn; TP Quảng Ngãi – Di tích Bệnh xá Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm – di chỉ Sa Huỳnh. Nền ẩm thực ở Quảng Ngãi rất phong phú, đa dạng, không chỉ có mạch nha, đường phèn đường phổi là những món ăn chơi, mà còn có nhiều món ăn gần gũi với đời sống, những món ăn mang đậm phong cách bình dân xứ Quảng như don, cá bống sông Trà ăn với cơm nóng, bánh xèo, bê thui, đậu hũ được nấu trong giò… Có đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam đi qua, sân bay Chu Lai ở gần kề, du khách có thể dễ dàng đi đến Quảng Ngãi bằng nhiều tuyến giao thông khác nhau và có những trải nghiệm thú vị nhất. Có thể khẳng định, tài nguyên thiên nhiên của Quảng Ngãi là vô tận với những vẻ đẹp riêng có và không hề thua kém so với một số địa phương nổi tiếng khác trên cả nước. Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Giới Thiệu Về Cảnh Đẹp Quê Hương Quảng Ngãi – Mẫu 3 Để viết bài giới thiệu về cảnh đẹp quê hương Quảng Ngãi các em học sinh có thể tham khảo gợi ý thuyết minh về núi Ấn, sông Trà trong bài văn mẫu dưới đây Quảng Ngãi là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam có nhiều thắng cảnh đẹp. Nhưng khi nhắc đến Quảng Ngãi, người ta thường nói đến vẻ đẹp của núi Ấn, sông Trà, biểu tượng thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi. Trên quốc lộ 1A con đường huyết mạch chạy suốt Bắc- Nam, cách thủ đô Hà Nội 883 km Thành phố Quảng Ngãi nằm ngay bên bờ sông Trà Khúc. Sông Trà Khúc còn được gọi là Trà Giang hay sông Trà là dòng sông lớn và cũng là điểm đến không thể bỏ qua của nhiều du khách đến với Quãng Ngãi. Sông Trà phát nguồn từ đỉnh núi Đắc Tơ Rôn tỉnh KonTum, cao m.. Sông Trà hợp thành bởi 4 con sông, chảy về hướng đông, qua ranh giới thành phố Quảng Ngãi rồi đổ ra biển qua cửa Đại Cổ Lũy. Với chiều dài 150 km, chảy qua nhiều khu đồi, núi dốc, nhưng đến thành phố Quảng Ngãi dòng sông chảy êm đềm hơn, khiến khung cảnh thành phố bên sông mang thêm vẻ đẹp yên bình, cuốn hút. Đến với Quảng Ngãi, du khách không thể bỏ qua một thắng cảnh nổi tiếng khác, đó là núi Thiên Ấn. Núi Thiên Ấn cao 106 mét, cách thành phố Quảng Ngãi 3,5 km về hướng Đông bắc. Ở bất cứ hướng nào, nhìn từ xa người ta đều thấy ngọn núi có hình thang, tựa như chiếc ấn từ trời cao nghiêng xuống dòng sông, vì vậy người xưa gọi thắng cảnh này là “Niêm Ấn Thiên Hà” tức là quả ấn của trời đóng niêm xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên Ấn Thiên Ấn Tự được xây dựng từ năm 1695 đời chúa Nguyễn Phúc Chu. Trong chùa Thiên Ấn hiện còn quả “chuông thần” rất quý do các nghệ nhân làng đúc đồng Chú Tượng Mộ Đức tạo tác vào năm 1845. Trải qua bao thế kỷ tiếng chuông chùa vẫn vang vọng khắp không gian rộng lớn. Con đường đi lên đỉnh núi men theo sườn núi phía Nam theo hình xoắn ốc. Đường đủ rộng, có độ dốc thoai thoải , bởi thế có thể lên núi bằng ô tô xe máy rất thuận tiện. Du khách cũng có thể thong thả đi bộ lên đỉnh núi. Ấn tượng đầu tiên đứng trên đình núi Ấn là khí hậu rất mát mẻ. Từ đây, du khách tha hồ ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Quảng Ngãi yên bình bên dòng sông trà xanh mát lững lờ trôi. Khuôn viên chùa Thiên Ấn nằm trên khoảng đất rộng ẩn dưới bóng cây cổ thụ mang dáng vẻ u tịch. Chùa Thiên Ấn có kiến trúc đơn giản, theo kiểu kiến trúc nhà Rường loại nhà có hệ thống kết cấu cột kèo bằng gỗ, được liên kết hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ. Gian chùa chính ở phía trước, phía sau là khu nhà tổ. Xung quanh chùa có khu vườn tượng với những vườn hoa cây cảnh, có những hàng ghế đá cho khách ngồi nghỉ. Phía đông chùa Thiên Ấn là khu lăng mộ của các vị sư tổ với những ngôi tháp được xây dựng nhiều tầng theo số lẻ 5, 7, 9 và tượng hình hoa sen. Đặc biệt trong khuôn viên chùa còn có giếng nước gọi là “Giếng Phật” được đào từ lúc khai sơn, lập chùa. Sư thày Thích Đông Hoàng, trụ trì chùa Thiên Ấn, kể Ngày ấy, vị sư tổ đào mãi không thấy nước thì đi ra ngoài, sau khi quay lại thấy tia nước đầu tiên, thì mừng rỡ nên gọi người kéo lên…nhưng quên còn có vị tăng trẻ vẫn ở dưới giếng. Khi nhớ ra nhà sư tới xem thì vị tăng trẻ đi lúc nào không biết. Bởi vậy trong dân gian vẫn con lưu truyền câu thơ Có thày đào nước trên non, đến khi có nước không còn tăm hơi. Dù giếng đào trên núi, nhưng theo người dân ở đây, nguồn nước trong giếng chưa bao giờ cạn. Người dân trong vùng còn cho rằng nước ở giếng Phật có thể chữa được nhiều loại bệnh tật. Với những đặc điểm như thế, trong tâm thức người Quảng Ngãi, núi Thiên Ấn và dòng Trà mãi là biểu tượng Sơn Thủy thiêng liêng. Vào những dịp lễ lớn, khách thập phương đến lễ, vãn cảnh chùa Thiên Ấn lên đến cả vạn người. Nhiều khách du lịch cũng không bỏ dịp được chiêm ngưỡng thắng cảnh hàng đầu của tỉnh Quảng Ngãi. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Quảng Ngãi – Mẫu 4 Đón đọc bài thuyết minh về di tích lịch sử ở Quảng Ngãi với những thông tin thú vị giúp bạn tìm hiểu về di tích thành cổ Châu Sa gắn liền với vương triều Chăm cổ. Thành cổ Châu Sa là thành đất do người Chăm xây dựng duy nhất còn lại ở Việt Nam hiện nay. Đây là ngôi thành gắn với nhiều bí ấn cùng lịch sử thăng trầm của dân tộc Chăm và vương quốc Chiêm Thành. Thành Châu Sa được dân gian gọi là thành Hời thành của người Hời, tức người Chăm. Sử cũ gọi là thành Đa La, Chiêm Lũy động, Cổ Lũy động. Thành tọa lạc ở khu vực hạ lưu tả ngạn sông Trà Khúc, nay thuộc xã Tịnh Châu, cách TP. Quảng Ngãi 7 km về hướng đông bắc. Trên khắp cõi Việt Nam, đây là thành đất duy nhất mà người Chăm còn để lại với những dấu tích cho phép nhận diện khá rõ vị trí, quy mô, bố cục cũng như vai trò của tòa thành đối với vùng đất có thể là một tiểu quốc của họ. Thành cổ Châu Sa được phát hiện vào năm 1924 khi nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier 1871-1949 tìm thấy ở đây một bia đá về sau gọi là “Bia đá Châu Sa” có 4 mặt khắc chữ Chăm nói về cuộc đời hai vị vua đầu tiên của vương triều Indrapura 875-982. Trên bia cũng ghi chính xác năm dựng bia là 903. Cùng với các bằng chứng khảo cổ khác, các nhà khoa học cho rằng thành cổ Châu Sa ra đời trong khoảng thế kỷ 9 – 10 và là một trong những trung tâm hành chính, kinh tế và văn hóa quan trọng của vương quốc Chiêm Thành lúc bấy giờ. Từ sau cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1471, vùng đất từ nam đèo Hải Vân đến bắc đèo Cù Mông được sáp nhập vào Đại Việt, thành lập Đạo thừa tuyên Quảng Nam, cổ thành Châu Sa dần bị rơi vào quên lãng. Cho nên, đến thế kỷ 19, các sử gia triều Nguyễn vẫn còn nghi ngờ về ngôi cổ thành này. Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép về thành này như sau “Thành cổ Châu Sa ở xã Châu Sa, huyện Bình Sơn. Diện tích hơn 5 mẫu 5 sào. Tương truyền có hai thuyết Một thuyết nói là thành Đại La của nước Chiêm Thành, một thuyết là Vệ Thành của Tam ty đời Lê tức 3 ty thuộc Đạo thừa tuyên Quảng Nam đời nhà Hậu Lê. Chưa rõ thuyết nào đúng”. Trải qua những thăng trầm của thời gian và lịch sử, dấu tích của thành Châu Sa ngày nay vẫn còn khá nguyên vẹn với nhiều tường đất, hào lũy. Thành có hai lớp thành nội và thành ngoại. Thành nội được đắp bằng đất, hình chữ nhật dạng gần vuông 540 m x 580 m, cạnh dài theo hướng bắc – nam. Tường thành cao từ 4-6 m, chân thành rộng từ 20-25 m, mặt thành rộng 5-8 m. Quanh thành có hào nước rộng từ 20-25 m, nay phần nhiều đã bị bồi lấp thành ruộng. Thành nội có 5 cửa mở theo hướng đông, tây, nam, bắc và tây nam; trong đó, cửa nam được đào đắp công phu hơn cả, được phỏng đoán là cửa chính của thành. Thành ngoại gồm có ba mặt, được kết hợp giữa đào đắp với việc tận dụng địa thế tự nhiên đồi núi thấp, gò, ao đầm, suối rạch. Phía nam của thành ngoại nhìn ra sông Trà Khúc nên không có bờ thành. Điểm nhấn đặc biệt trong kiến trúc tổng thể của thành cổ Châu Sa là hai gọng thành hình càng cua đối xứng nhau theo trục nam – bắc nằm giữa thành nội và thành ngoại, về hướng phía nam. Trong đó, gọng phía tây dài gần 700 m, gọng phía đông dài gần 500 m. Tuy được đắp bằng đất nhưng thành cổ Châu Sa có quy mô khá lớn, án ngữ ở vị trí trọng yếu của một vùng lưu vực rộng lớn thuộc sông Trà Khúc. Thành thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược cũng như sự khôn khéo của người Chăm xưa trong việc kết hợp tối ưu giữa chức năng quân sự – phòng thủ với vai trò kinh tế – dân sự. Đây được xem là ngôi thành đất tiêu biểu của người Chăm. Ngày nay, trải qua những thăng trầm lịch sử, thành cổ Châu Sa vẫn còn đó như là chứng tích về vương triều Chăm Pa một thuở lẫy lừng. Thành được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1994. Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Biển Mỹ Khê Quảng Ngãi 🌼 10 Bài Hay Nhất Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Quảng Ngãi – Mẫu 5 Với đề văn yêu cầu thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở Quảng Ngãi, dưới đây là bài văn mẫu thuyết minh về biển Sa Huỳnh để bạn đọc và các em học sinh cùng tham khảo. Sa Huỳnh là thắng cảnh lưng tựa vào núi rừng trùng điệp, mặt hướng về biển biếc bao la để lại nhiều lưu luyến đối với mỗi du khách. Đứng trên đồi cao nhìn xuống Sa Huỳnh Quảng Ngãi, bãi cát vàng, bờ sóng trắng chạy một “nét mi” cong lao xao, mềm mại. Đường sắt cách biển không xa, chạy song song với quốc lộ, trông như hai sợi dây đàn căng ngang khiến tâm hồn bao du khách đong đầy nhạc cảm. Còn nếu nhìn Sa Huỳnh từ ngọn Hải đăng trên bán đảo Thạnh Đức cách Sa Huỳnh 3 km về phía đông, đầu tiên bạn sẽ thấy sắc xanh mềm mại của những lũy tre, tiếp đến là xanh sẫm những bóng dừa rồi đến xanh trong của dòng sông mở lòng ra biển lớn. Những con tàu buông neo đợi giờ xuất bến. Những xóm chài yên bình, êm ả nép bên nhau. Chắc chắn bạn sẽ lưu giữ vẻ đẹp góc cạnh của những chàng trai biển bên tấm lưới giăng trên bãi cát. Đó là những tấm ngực trần vồng lên hình ngọn sóng. Đó là những bắp thịt cuồn cuộn từng kéo xoăn tay chùm cá nặng giữa biển khơi. Đó là những bàn chân trần vững vàng trên dập dềnh sóng cả. Ngồi với họ, bạn sẽ được nghe kể về những bữa cơm chan hòa vị biển, những giấc ngủ chao đảo trong ca bin mùa biển động, những giấc ngủ chênh vênh, một đêm có khi ướt ráo mấy mươi lần. Họ sẽ kể cho bạn nghe chuyện đảo xa, không chỉ là chuyện sóng gió của biển trời mà còn là những câu chuyện “sóng gió” của lòng người xoay trở. Bạn sẽ bắt gặp những phụ nữ cần mẫn ngồi vá lưới để cho con, cho em, cho anh, cho chồng của họ có một giấc ngủ no mắt trước chuyến biển dài hơi. Một giấc ngủ say trên bờ bằng cả chục đêm ngủ lơ mơ trên biển mà. Nếu muốn tìm một đoạn ngắn bờ biển mà sóng nước lúc nào cũng êm ả, gờn gợn như mặt hồ, các bạn hãy đến với bãi Con – cách bãi mẹ Sa Huỳnh về phía đông khoảng 1 km. Bãi Con nối với chân gành gập ghềnh đá nửa nổi nửa chìm trong nước biển nên rất nhiều hàu. Hàu ở đây lành tính, thơm ngon, đậm đà vị biển nên du khách rất thích. Một màn trình diễn đầy màu sắc sẽ làm bạn mãn nhãn khi ngắm rạng đông trên bãi biển Sa Huỳnh. Mặt trời đỏ rựng trên nền mây lung linh, biển dần xanh lên từ màu sẫm đen của bóng đêm sót lại, bãi cát vàng những tia nắng đầu tiên sẽ làm bạn nhẹ bâng. Ngày mới của bạn sẽ bắt đầu như thế. Dạo bộ dọc quốc lộ qua thị tứ Sa Huỳnh, hình ảnh sinh động của cánh đồng vào vụ gặt, hình ảnh êm đềm của đàn bò no cỏ vừa đi vừa nhai bóng hoàng hôn, hình ảnh khói lam chiều bảng lảng xóm làng xa cũng có thể cho bạn những phút giây thư thả tâm hồn. Sa Huỳnh nhiều cung bậc. Cung bậc nào cũng dìu dịu những thanh âm trong trẻo, tươi ròng vẻ đẹp của cuộc sống trong từng phân cảnh non nước trời mây. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Quảng Nam 🍀 15 Bài Giới Thiệu Quảng Nam Thuyết Minh Về Đảo Lý Sơn Quảng Ngãi – Mẫu 6 Bài thuyết minh về đảo Lý Sơn Quảng Ngãi sẽ tái hiện trước mắt bạn đọc khung cảnh thiên nhiên trong xanh, tươi đẹp của vùng biển đảo này bằng những ý văn giàu hình ảnh. Quê tôi miền đảo LýGiữa bốn bề gió lộngVẫn sừng sững hiên ngangDẫu ngàn đời sóng vỗ Lý Sơn huyện đảo với vô vàn những cảnh đẹp, con người bình dị và thân thiện. Có lẽ chỉ mới vài năm gần đây Lý Sơn mới được nhiều người biết đến khi ngành du lịch phát triển. Nhưng trước đó Lý Sơn đã có cả một lịch sử phát triển lâu đời với những khung cảnh đẹp, những con người đầy hiên ngang, khí phách. Lý Sơn là huyện đảo thuộc tỉnh Quãng Ngãi và đây cũng là huyện đảo duy nhất của tỉnh. Lý Sơn cách đất liền 15 hải lí. Trước khi có tên gọi là Lý Sơn, huyện đảo này có tên là cù lao Ré, cái tên được đặt dựa trên đặc điểm riêng của đảo là trồng rất nhiều cây Ré. Đảo Lý Sơn được hình thành từ miệng núi lửa cách đây từ 25 đến 30 triệu năm. Chính sự phun trào của các ngọn núi lửa này đã tạo nên những cảnh quan thiên nhiên kì thù, lạ thường trên đảo. Đặc biệt lớp đất để lại sau đợt phun trao thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Với những kết quả nghiên cứu, thì có thể thấy rằng đảo Lý Sơn đã có người sinh sống từ thời văn hóa Sa Huỳnh. Và đến khoảng cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII cư dân Việt bắt đầu khai khẩn vùng đất này để sinh sống. Lý Sơn nằm cách biệt ngoài đảo, nên ít chịu ảnh hưởng của chiến tranh, nên văn hóa cổ truyền được thiết lập ở đây mang dấu ấn đậm, và được lưu giữ lại rất tốt. Đảo Lý Sơn chỉ có diện tích khoảng 9,97 km2, với hơn 20 nghìn người sinh sống trên đảo. Đảo gồm có hai đảo chính là đảo Lớn và đảo Bé và một hòn Mù Cu ở phía Đông của đảo Lớn. Đảo gồm có ba xã chính, đi theo hai đảo và một hòn là An Vĩnh, Anh Hải và An Bình. Người dân trên đảo sinh sống chủ yếu bằng đánh bắt hải sản, ngoài ra cũng có nông nghiệp. Nghề nông ở đây khá khó phát triển, vì đảo nhỏ, nguồn nước không quá dồi dào, bởi vậy nông nghiệp còn nhiều khó khăn. Trên đảo chủ yếu trồng cây lương thực khác, ngoại trừ lúa, lúa phải nhập từ đất liền. Nghề trồng tỏi là thịnh hành nhất trên đảo. Chủ lực của Lý Sơn chính là đánh bắt hải sản, cao gấp năm lần cho với nông nghiệp. Ngoài ra, những năm gần đây, Lý Sơn còn phát triển thêm ngành du lịch, hàng năm số lượng người đến du lịch lớn, đem lại công ăn việc làm và nguồn lợi kinh tế không nhỏ cho người dân nơi đây khi kinh doanh các dịch vụ. Lý Sơn tuy chỉ là một huyện đảo nhỏ nhưng lại có ý nghĩa nhiều mặt. Trước hết về văn hóa, Lý Sơn đã lưu giữ những giá trị văn hóa quý báu. Trong các cuộc khai quật, người ta đã tìm thấy cư dân Sa Huỳnh – chủ nhân văn hóa hệ biển đảo, tiếp đến là văn hóa Chăm Pa, để lại những giá trị di sản văn hóa đặc sắc. Trên đảo cũng có rất nhiều lễ hội văn hóa lễ hội đua thuyền, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa,… Ngôi chùa Hang kì vĩ, được mệnh danh là chùa trời sinh và còn rất nhiều di sản văn hóa khác, đã làm phong phú, đa dạng thêm văn hóa nơi đây. Lý Sơn là biển đảo thơ mộng, hoang sơ bởi vậy hàng năm thu hút lượng khách du lịch trong và ngoài nước lớn. Cổng tò vò với chiều hoàng hôn ráng đỏ đã làm say lòng biết bao bạn trẻ, rồi đến những bài biển dài, cát trắng xóa mềm mịn, nước trong xanh, thấu đến tận đáy. Làm ta đi một lần là nhớ mãi. Đến Lý Sơn đi bất cứ đâu bạn cũng có thể tìm thấy cảnh đẹp cho riêng mình. Du lịch tại Lý Sơn đã góp phần thúc đẩu kinh tế xã hội phát triển. Bên cạnh đó ta cũng không thể không nhắc đến nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực, với món gỏi tỏi chứ danh, gỏi cá cơm, và các món hải sản thơm ngon, hấp dẫn,… Ngoài ra, Lý Sơn với cảnh đẹp nên thơ, hữu tình cũng đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác từ bao đời nay Trực nhìn ngó thấy Bàn ThangBa hòn lao Ré nằm ngang Sa KìCa dao Hay bài thơ của những người con xa quê hương, nhớ thương gửi qua từng câu chữ Thuở nhỏ sinh ra tại Lý SơnLớn khôn phiêu bạt bởi nguồn cơnNhà nghèo nên phải đành xa xứPhú quý có đâu chịu lạ chơnNhớ lắm quê hương khi quạnh quẽThương nhiều xứ sở lúc cô đơnQuyết lòng phấn đầu cho thành đạtTrở lại quê nhà trả nghĩa nhơn. Lý Sơn – trái tim của biển đông, nơi hội tụ biết bao vẻ đẹp của quê hương. Với những thế mạnh vốn có của mình Lý Sơn không chỉ lưu giữ vốn văn hóa ngàn đời của dân tộc, mà còn có cơ hội phát triển hơn nữa, đưa cuộc sống của con người nơi đây ngày càng đủ đầy, ấm no hơn. Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới Thuyết Minh Về Biển Mỹ Khê Quảng Ngãi – Mẫu 7 Tham khảo bài thuyết minh về biển Mỹ Khê Quảng Ngãi với cách hành văn sinh động và để lại nhiều ấn tượng với người đọc. Nằm cách thành phố Quảng Ngãi chỉ 15 km, nằm trên đường ra cảng Sa Kỳ để đi đảo Lý Sơn. Vài năm trở lại đây, nhiều người đã biết đến cái tên Mỹ Khê – một điểm đến mới của tỉnh Quảng Ngãi. Trùng tên với bãi biển Mỹ Khê nổi tiếng của TP Đà Nẵng, bãi biển Mỹ Khê thuộc thôn Cổ Lũy, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, nằm bên cạnh sông Kinh là bãi tắm lý tưởng với không gian mênh mông, bãi cát trắng mịn, độ dốc thoải, được che chắn kín đáo bởi những rặng núi lấn ra biển cả ở 2 đầu. Với đường bờ biển trải dài 7km, dải cát mịn, dốc thoai thoải, được che chắn bởi rừng dương phi lao xanh thẳm đu đưa theo gió. Bờ biển uốn hình lưỡi liềm như vầng trăng khuyết và càng trở nên thơ mộng hơn vào mùa hè, dưới ánh trăng thổn thức. Do chưa được khai thác đúng mức, biển Mỹ Khê – Quảng Ngãi còn giữ được nét đẹp hoang sơ, chưa bị bàn tay con người tác động nhiều, một nàng tiên vẫn ngủ yên chờ con người đánh thức. Với con sông Kinh chạy song song ở phía trong, bãi biển Mỹ Khê có những làng chài chài yên bình, những chiếc thuyền câu đánh bắt gần bờ, những chiếc thuyền thúng nằm phơi mình cùng nắng gió mang lại những nét chấm phá, điểm tô sự bình dị, thân thương cho bãi biển nơi đây. Mặc dù bãi biển Mỹ Khê nằm bên quốc lộ 24B, chỉ cách TP Quảng Ngãi 50 phút xe bus; cách cảng Sa Kỳ 5km; cách cảng Dung Quất 16km nhưng bãi biển này vẫn còn khá mới mẻ với rất nhiều người. Đặc biệt, trên tuyến đường ra với Mỹ Khê, du khách cũng có thể tham quan hàng loạt các di tích nằm bên đường như Bảo tàng chứng chứng tích chiến tranh Sơn Mỹ; Đền thờ anh hùng thời chống Pháp Trương Định; Di tích thảm sát Mỹ Lai ghi dấu tội ác của quân đội Mỹ từng tấn công vào đây; thăm chùa Núi Ấn và sống Trà Khúc hiền hòa chảy ra biển vốn được coi là biểu tượng của Quảng Ngãi vốn đi vào thơ ca “Núi Ấn – Sông Trà”. Đến với bãi biển Mỹ Khê, du khách có thể tìm cho mình một góc riêng bên các hàng quán dân dã, thưởng thức những món đồ hải sản với giá tương đối bình dân và đặc biệt nơi đây không hề có sự xô bồ, bán mua như ở những bãi biển du lịch khác. Chính điều này nên những ngày cuối tuần hoặc lễ tết, du khách nhất là các bạn trẻ thường lấy đây làm điểm đến trên chuyến hành trình khám phá của mình trước khi ra Lý Sơn. Không nổi tiếng được như người “chị” Mỹ Khê Đà Nẵng, hạ tầng bãi biển Mỹ Khê Quảng Ngãi vẫn còn đơn sơ. Du khách biết đến Mỹ Khê cũng chỉ vài năm gần đây nhờ sự nổi tiếng của hòn đảo Lý Sơn, vì địa danh này nằm trên đường từ Quảng Ngãi ra cảng Sa Kỳ. Thực tế, Mỹ Khê là một trong những bãi tắm đẹp và có nhiều lợi thế của tỉnh Quảng Ngãi để phát triển du lịch. Du khách đến đây có thể trải nghiệm một cảnh quan biển nguyên sơ và tận hưởng cảm giác yên bình khi tìm về với thiên nhiên. Mời bạn khám phá thêm 💕 Thuyết Minh Về Thánh Địa La Vang Quảng Trị 💕 10 Bài Hay Giới Thiệu Về Thác Trắng Quảng Ngãi – Mẫu 8 Giới thiệu về thác Trắng Quảng Ngãi sẽ là một trong những gợi ý thú vị giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết thuyết minh về danh lam thắng cảnh. Đón đọc trọn vẹn bài văn mẫu thuyết minh về thác trắng Quảng Ngãi với những ý văn sinh động dưới đây Thác trắng là một trong những thác đẹp nhất ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Thác nằm gần thôn Tịnh ố, xã Thanh An, huyện Minh Long. Từ huyện lỵ đi đến thác khoảng 7km. Thác Trắng Minh Long nằm giữa vùng núi Trường Sơn trùng điệp. Thác Trắng đã được đưa vào khai thác, phát triển thành một khu du lịch sinh thái, với những điều kiện phục vụ tốt nhất cho một chuyến dã ngoại. Tuy nhiên, nơi đây vẫn còn giữ được những nét hoang sơ vốn có của đại ngàn. Vào những ngày nghỉ lễ lớn, thác Trắng sẽ là một thắng cảnh bạn không thể bỏ qua trong hành trình trải nghiệm và khám phá cùng người thân, bạn bè. Để đến với địa điểm du lịch hoang sơ này, du khách sẽ vượt qua đèo Eo Gió nằm tiếp giáp giữa huyện Nghĩa Hành và Minh Long. Càng đến gần địa bàn huyện miền núi Minh Long, quang cảnh cũng bắt đầu thay đổi dần với những rẫy chè, nương sắn, thửa ruộng của đồng bào H’rê hai bên đường. Dòng suối sau khi băng qua đồi núi và những cánh rừng nguyên sinh đã “thả mình” rơi xuống từ độ cao hơn 40 m. Từ trên cao, nước chảy xuống trắng xóa như đang trang trí cho sườn núi đá dốc đứng. Dòng nước trắng xóa nổi bật giữa màu xanh của cây rừng, của núi đá tạo nên một khung cảnh kỳ vĩ. Cũng chính vì thế, người dân địa phương đặt tên cho nơi này là thác Trắng. Dưới chân thác Trắng là hồ nước tự nhiên rộng hàng trăm mét vuông, xanh biếc và mát lạnh ngay cả trong những ngày nắng nóng nhất. Từ chân thác này, nước theo con suối rộng khoảng 20 mét, lô nhô đá tảng giữa dòng, quanh có uốn khúc trong thung lũng trước khi chảy ra hợp nước với các khe suối khác. Giữa mùa hè nóng bức mà đến thác Trắng với không khí mát lành thì thật tuyệt. Làng ố xưa chỉ là rừng hoang, chỉ có một ít đồng bào Hrê đến cất chòi giữ trâu. Nay ố đã trở thành một làng Hrê định canh định cư, vẫn với nếp nhà cổ truyền, nhưng lợp ngói, khang trang đẹp đẽ. Hồ nước dưới chân thác Trắng và lòng suối có nhiều cá niêng được xem như một đặc sản mà bất cứ khách từ đâu cũng ưa thích. Mỗi ngày có hàng trăm lượt khách đến chiêm ngưỡng vẻ kỳ vĩ, hoang sơ của dòng thác, đá núi, những cánh rừng và thỏa sức vẫy vùng trong dòng nước mát lạnh. Nếu ai muốn đến với thác Trắng hãy tìm sự giúp đỡ của người dân bản địa. Họ sẽ cho bạn nhiều kinh nghiệm qua suối khi nước chảy xiết, chỉ cho bạn biết nơi đâu nước lớn, có hố sâu, chỗ nào nhiều vắt.. Và để thêm yêu con người, vùng đất nơi đây. Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Quảng Ninh 🌟 15 Bài Giới Thiệu Quảng Ninh Thuyết Minh Về Chứng Tích Sơn Mỹ Quảng Ngãi – Mẫu 9 Bài thuyết minh về chứng tích Sơn Mỹ Quảng Ngãi sẽ nhắc nhớ bạn đọc về một trong những địa điểm gắn liền với những bi thương và mất mát của đất nước trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do và hoà bình. Bên cạnh giá trị lịch sử, khu di tích Sơn Mỹ là nơi ghi tội ác điển hình của giặc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là nơi tưởng niệm 504 đồng bào ta đã ngã xuống, nơi đây còn có giá trị về du lịch. Di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ nằm trên địa bàn xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, cách thành phố Quảng Ngãi 13km về phía đông bắc. Ngày 16/3/1968, một cuộc hành quân huỷ diệt dã man chưa từng thấy, được quân xâm lược Mỹ mưu tính và thực hiện, đánh vào người dân Sơn Mỹ vô tội không một tấc sắt trong tay. Với chủ trương đốt sạch, phá sạch, giết sạch, chúng đã biến nơi này thành vùng đất chết. Lính Mỹ đã đổ bộ xuống phía tây xóm Thuận Yên thôn Tư Cung và xóm Gò thôn Cổ Lũy và cuộc thảm sát bắt đầu. Số người bị tàn sát ở thôn Tư Cung là 407 người, tại thôn Mỹ Hội là 97 người. Tổng số người bị tàn sát ở Sơn Mỹ là 504 người, trong đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già, 24 gia đình bị giết sạch, 247 ngôi nhà bị thiêu cháy. Vụ thảm sát Sơn Mỹ là đỉnh cao trong muôn vàn tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, bị cả loài người lên án. Khu di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ là một tổng thể các địa điểm nơi ghi dấu tội ác của giặc Mỹ đối với đồng bào ta. Khu chứng tích Sơn Mỹ, diện tích 2,4ha, nằm ở xóm Khê Thuận thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê cạnh tỉnh lộ 24B từ thị xã Quảng Ngãi đi Sơn Mỹ – Mỹ Khê – Sa Kỳ và cách cụm di tích ruộng ông Nhiều, tháp canh, đường làng khoảng 400m. Di tích nằm tách biệt với nhà dân bao gồm các di tích gốc đã được bảo tồn tôn tạo và các công trình về sau này mới được xây dựng như nhà trưng bày bổ xung, nơi tiếp khách, tượng đài, tượng vườn. Cụm di tích bao gồm ruộng ông Nhiều, tháp canh, gốc cây gòn nằm ở xóm Khê Thuận và điểm di tích vườn ông Phạm Minh Khê ông, Phạm Hội Khê Tây. iểm di tích hầm chống pháo của gia đình ông Lý Lệ, ông Ngô Mân tại xóm Mỹ Hội thôn Cổ Lũy. Các điểm di tích mộ chôn chung các nạn nhân bị thảm sát. Bên cạnh giá trị lịch sử, khu di tích Sơn Mỹ là nơi ghi tội ác điển hình của giặc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, là nơi tưởng niệm 504 đồng bào ta đã ngã xuống. Sơn Mỹ còn có giá trị về du lịch, nằm trong tuyến du lịch Thiên Ấn khu mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng – Châu Sa – Sơn Mỹ – Mỹ Khê – Dung Quất. Hàng năm có hơn 5 vạn người đến Sơn Mỹ tham quan. Hiện nay, mỗi tháng có gần lượt khách đến tham quan. ến Sơn Mỹ hôm nay, du khách có thể dừng lại trước bức tượng để cảm nhận nỗi đau tột cùng của nạn nhân Sơn Mỹ ngày ấy. Bên trong nội thất Nhà Chứng tích, du khách có thể xem nhiều hiện vật còn được lưu giữ đó là chiếc mâm thau cũ còn lỗ chỗ vết đạn, chiếc áo, đôi dép của một cháu bé bị bắn chết; các loại chén đĩa, xoong chảo bị bắn thủng vỡ, chiếc mõ tụng kinh của nhà sư Thích Tâm Trí còn tìm lại được. Trong những hiện vật đó, còn tìm thấy chiếc kẹp tóc của cô Nguyễn Thị Huỳnh. Sau khi cô bị sát hại, người yêu cô đã tìm nhặt lại được chiếc kẹp tóc ấy, trân trọng giữ gìn nó suốt 8 năm trời trước khi giao nó cho Nhà Chứng tích… Bên ngoài khuôn viên chứng tích, rải rác đó đây trong các xóm thôn là những tấm bia dựng lên ở các địa điểm đã xảy ra các cuộc bắn giết. ây là tháp canh ở rìa làng, bên con đường đất nhỏ xóm Thuận Yên với 102 người bị bắn chết. Kia là cây gòn nơi 15 phụ nữ và trẻ em bị sát hại. Ở xóm Mỹ Hội, bây giờ bóng dừa đã vươn cao, ngoài kia biển xanh vẫn xua những đợt sóng bạc đầu vào bãi cát vàng sạch sẽ, duyên dáng, đúng là một cảnh đẹp có hạng ở Việt Nam. Giữa những khung cảnh trầm lắng thân thương ấy là tấm bia ghi dấu 97 người dân ở xóm bị tàn sát ngày nào. Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào Chùa Ông là một trong những địa danh tâm linh không thể bỏ qua khi du khách đến thăm vùng đất Quảng Ngãi. Đón đọc bài thuyết minh về chùa Ông Quảng Ngãi dưới đây Chùa Ông hay chùa Ông Thu Xà là một trong “ngũ đại danh tự” của tỉnh Quảng Ngãi cùng với chùa Hang Lý Sơn, chùa Thiên Ấn, chùa Hoa Nghiêm và chùa Diêm Điền, được công nhận là Di tích quốc gia năm 1993. Chùa tọa lạc tại thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa trước đây thuộc huyện Tư Nghĩa, nay thuộc TP. Quảng Ngãi, cách trung tâm thành phố khoảng 10 km về hướng đông. Chùa Ông Thu Xà được người Hoa Minh Hương sống ở vùng Thu Xà xây dựng vào năm Minh Mạng thứ hai năm 1821. Trải qua nhiều lần trùng tu, đến nay chùa vẫn giữ được gần như kiến trúc ban đầu. Trong gần 200 năm tồn tại, ngôi chùa này là nơi sinh hoạt tâm linh chung của cả người Hoa và người Việt tại Thu Xà. Về quy mô, chùa Ông Thu Xà nhỏ hơn so với các chùa thờ Quan Công ở Hội An Quảng Nam. Tuy nhiên, chùa lại có sự kết hợp hài hòa các yếu tố kiến trúc Việt – Hoa trong một tổng thể giàu tính thẩm mỹ. Từ ngoài vào, các công trình của chùa gồm tam quan, bình phong và trụ biểu, lầu trống và lầu chuông, chánh điện được bố trí theo một trục đạo với một bố cục chặt chẽ, đăng đối và tuần tự. Về tổng thể, chùa có kiến trúc hình chữ “tam” với ba khối nhà liền nhau tiền đường, chánh đường và hậu cung. Chánh đường thờ Quan Vũ, hậu cung thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Đây là mô hình “tiền thánh hậu phật” rất phổ biến trong kiến trúc chùa của người Minh Hương ở Việt Nam. Nghệ thuật trang trí ở chùa Ông Thu Xà cũng đạt đến trình độ tinh xảo, đặc biệt là các kỹ thuật chạm nổi, chạm thủng, chạm lộng trên các bình phong, cột, khám thờ, tượng, diềm bia… Tại chùa Ông Thu Xà hiện còn lưu 6 bia đá viết bằng chữ Hán được tạo dựng vào các năm 1895 và 1920, ghi lại việc trùng tu chùa. Các bia này được trang trí bằng hình chạm nổi lưỡng long tranh châu. Đây là những bia đá có giá trị lịch sử và mỹ thuật. Chùa Ông Thu Xà là một trong những địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng nổi tiếng nhất tại Quảng Ngãi, thu hút nhiều người đến tham quan, chiêm bái, nhất là vào các dịp tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ, lễ Phật đản, lễ Vu lan báo hiếu… Hằng năm, tại đây còn có lễ hội chùa Ông Thu Xà với nhiều hoạt động đậm sắc màu văn hóa, tâm linh như rước xe hoa, thả hoa đăng, phóng sinh, múa lân, dâng hương, phát lộc… và thấm đẫm tinh thần nhân văn cầu quốc thái dân an, tế cáo âm hồn…. Lễ hội diễn ra từ ngày 14 và 15 tháng 7 âm lịch, thu hút đông đảo du khách thập phương về hành hương, vãn cảnh. Về vùng Tư Nghĩa Quảng Ngãi, ngoài đặc sản kẹo gương Thu Xà nổi tiếng, du khách đừng bỏ lỡ cơ hội đến vãn cảnh chùa Ông Thu Xà. Về đây, du khách sẽ được chứng kiến những nét tinh hoa trong kiến trúc chùa, được nghe các vị cao niên kể những giai thoại gắn với chùa và nhất là cảm nhận được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Quảng Bình 🍀 15 Bài Giới Thiệu Quảng Bình Thuyết Minh Về Chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi – Mẫu 11 Một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất của vùng đất ven sông Trà chính là chùa Thiên Ấn, bài thuyết minh về chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi dưới đây sẽ đưa bạn đọc cùng khám phá di tích tâm linh này. Đến Quảng Ngãi, sẽ chưa thật trọn vẹn nếu bạn chưa một lần lên núi vãn cảnh chùa Thiên Ấn. Đây là một trong những danh tự của tỉnh Quảng Ngãi, được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia vào năm 1990. Thiên Ấn cổ tự tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Ấn, thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, cách sông Trà Khúc và TP. Quảng Ngãi khoảng 3 km. Cùng với chùa Hoa Nghiêm TP. Quảng Ngãi, chùa Ông Thu Xà huyện Tư Nghĩa, chùa Hang huyện đảo Lý Sơn, chùa Diêm Điền huyện Sơn Tịnh, chùa Thiên Ấn là một trong những ngôi cổ tự lâu đời nhất ở xứ Cẩm Thành. Theo một số tài liệu, chùa Thiên Ấn được khởi công xây dựng vào năm 1694, hoàn thành cuối năm 1695, do thiền sư Pháp Hóa 1670-1754 sáng lập. Năm Vĩnh Thịnh thứ 11 1716, đời vua Lê Dụ Tông ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn Phúc Chu Đàng Trong, một người sùng đạo Phật, đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự”. Như vậy, từ khi khai sơn đến nay, chùa Thiên Ấn đã trải qua hơn 300 năm, với 15 đời trụ trì, trong đó có 6 vị được tôn là sư tổ, gọi chung là “lục tổ”. So với các danh tự khác, chùa Thiên Ấn có kiến trúc đơn giản hơn. Nhà phương trượng của chùa được xây theo kiến trúc nhà rường. Trong khuôn viên chùa có giếng cổ sâu hơn 50 thước, xây bằng đá ong đẽo nhẵn, nước ngọt và trong, gọi là giếng Phật, tương truyền do sư tổ của chùa tự đào trong suốt 20 năm, đến khi giếng hoàn thành thì sư viên tịch. Trong chùa còn có một chuông đồng lớn, tục gọi chuông Thần, được thỉnh về từ làng đúc đồng Chí Tượng nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi vào năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Điểm đặc biệt nhất của ngôi cổ tự này là địa thế trên đỉnh Thiên Ấn,một ngọn núi linh thiêng trong tâm thức của người dân Quảng Ngãi. Phía đông của chùa, nằm dưới hàng cây cổ thụ là các ngôi bảo tháp, nơi an táng các vị sư tổ và sư trụ trì của chùa. Trong chùa còn có nhiều hạng mục mới xây như vườn cây Lâm tì ni, bảo tháp 9 tầng, tượng Quan Âm Bồ Tát… Cũng trên đỉnh Thiên Ấn, gần chùa theo hướng tây là phần mộ của nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng được người dân địa phương an táng vào năm 1947. Cùng với chùa Thiên Ấn, mộ cụ Huỳnh đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Vãn cảnh chùa Thiên Ấn, du khách như lạc vào cõi thiền giữa cảnh núi rừng tĩnh mịch, không khí trong lành, không gian yên ắng, khoáng đãng khiến lòng người thư thái, thanh tịnh như được gọt rửa hết bụi trần. Đỉnh núi Thiên Ấn bằng phẳng, có nhiều loại cây ăn quả, các hàng cây cổ thụ và những con đường len lỏi giữa núi rừng, là nơi bộ hành thưởng cảnh lý tưởng. Từ chùa Thiên Ấn nhìn về phía sông Trà Khúc, cả một vùng rộng lớn như thu vào tầm mắt, du khách sẽ cảm được hết tình quê hương, non nước của người Quảng Ngãi trong câu ca dao đã từ lâu đi vào tâm thức con người nơi đây Ai về núi Ấn, sông TràCó thương cô bậu ghé nhà mà thăm. Về Quảng Ngãi, du khách hãy tạm gác lại những bề bộn cuộc sống, một lần lên đỉnh non thiêng vãn cảnh chùa Thiên Ấn. Rời khỏi chốn đô thị ồn ào, lên Thiên Ấn lạc vào cõi Phật, bạn sẽ thấy lòng mình an yên, thư thái hơn nhiều… Đón đọc tuyển tập 🌟 Thuyết Minh Về Phú Thọ 🌟 15 Bài Giới Thiệu Phú Thọ Hay Thuyết Minh Về Núi Thiên Ấn Quảng Ngãi – Mẫu 12 “Núi Ấn, sông Trà” từ bao đời nay đã trở thành biểu tượng của vùng đất Quảng Ngãi, bài thuyết minh về núi Thiên Ấn Quảng Ngãi dưới đây sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu chi tiết về danh thắng này. Núi Thiên Ấn nằm ở phía Bắc sông Trà Khúc, cách quốc lộ 1 không xa, nằm cạnh quốc lộ 24B cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi hơn 3km về hướng Đông Bắc. Núi Thiên Ấn cao 106 mét, dáng núi hình thang cân, nhìn từ hữu ngạn sông Trà, tựa như chiếc ấn của trời niêm xuống dòng sông, vì vậy người xưa gọi đây là “Thiên ấn Niêm Hà” ấn trời đóng trên sông với niềm tin đây là ngọn núi thiêng chi phối lịch sử và con người Quảng Ngãi. Con đường đi lên đỉnh núi, men theo sườn núi từ phía Nam theo hình xoắn ốc chiều kim đồng hồ, lòng đường rộng, độ dốc không lớn, có thể dùng xe các loại lên xuống. Ngoài ra còn có đường tắt kè đá thành những bậc cấp dùng cho người đi bộ. Đỉnh núi Thiên Ấn bằng phẳng, rộng khoảng 10ha tạo thế nhìn bao quát một vùng không gian rộng lớn những ruộng đồng, đồi núi, sông nước, làng mạc hợp thành một bức tranh phong cảnh hữu tình. Núp dưới bóng lùm cây cổ thụ, chiếm một diện tích tương đối lớn là ngôi chùa cổ Thiên Ấn, được xây vào cuối thế kỷ XVII và khu viên mộ với các lăng mộ hình tháp, uy nghi. Cách ngôi chùa không xa, chếch về hướng Tây Nam là mộ nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng với tấm bia mộ cao thanh thoát có thể nhìn thấy từ phía xa. Chùa Thiên Ấn được xây dựng vào năm 1694 và hoàn thành vào cuối năm 1695. Tổ khai sơn chùa Thiên Ấn là thiền sư Pháp Hóa 1670-1754, tục danh Lê Diệt, hiệu Minh Hải Phật Bảo, gốc người tỉnh phúc Kiến, Trung Hoa, thuộc dòng thiền Lâm Tế. Lúc đầu chùa chỉ có 1 am nhỏ, sau đó được dần trùng tu mở rộng thu hút được nhiều tăng ni phật tử và trở nên nổi tiếng. Năm Vĩnh Thịnh thứ 111717, đời vua Lê Dụ Tông, chúa Nguyễn Phúc Chu, là người rất sùng mộ đạo Phật đã ban cho chùa biển ngạch SẮC TỨ THIÊN ẤN TỰ. Tấm biển này sau đó bị hư hại và được thiền sư Hoàng Phúc tái tạo vào năm 1916. Từ khi khai lập đến nay, chùa đã có 15 đời sư trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ. Chùa đã trãi qua 5 lần trùng tu vào các năm 1717, 1827, 1910,1918, 1959. so với các ngôi chùa cổ trong Nam ngoài bắc, kể cả chùa Ông Thu Xà, chùa Thiên Ấn không nổi bật lắm về kiến trúc nội thất, trừ nhà phương trượng được xây dựng theo kiến trúc nhà rường, vốn là bộ khung mua lại của đình làng Phú Nhơn. Bù lại chùa được xây dựng ở vị trí có 1 không 2, đó là đỉnh đồi Thiên Ấn, một thế đất thiêng trong tâm tưởng người dân Quảng Ngãi. Không những đông đảo tăng ni phật tử toàn tỉnh tôn xưng ngôi vị tổ đình, mà đối với người dân, ngôi chùa này có một sự gắn bó bền chặt trong tâm linh, thể hiện qua các giai thoại như giếng Phật, chuông Thần và nhiều câu ca dao sâu nặng nghĩa tình được truyền miệng từ đời này sang đời khác. Khu viên mộ, nơi an táng các vị sư tổ và các thiền sư trụ trì, nằm tiếp phía Đông Thiên Ấn Tự, với những ngôi bửu tháp xây dựng nhiều tầng theo số lẻ 5,7,9 và tượng hình hoa sen, bên trong tháp là nói chôn giữ di hài, phía ngoài là bia ghi công đức, gắn liền vói thân tháp. Chính khu viên mộ này là nơi gìn giữ bảo thân của 6 vị thiền sư nổi tiếng, kế tục trụ trì chùa Thiên Ấn, gìn giữ, mở rộng chùa cũng như mang giáo lý từ bi, hỷ xả các Đức Phật đến với đông đảo tín đồ trong tỉnh. Cách ngôi chùa không xa, về phía Tây Nam là mộ chí nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng 1876-1947. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một nhà báo nổi tiếng, sáng lập và chủ bút báo Tiếng dân, tác giả Thi tù tùng thoại và nhiều văn phẩm có giá trị về văn học và lịch sử, Bộ trưởng Bộ nội vụ chính phủ liên hiệp kháng chiến, quyền Chủ tịch nước VNDCCH trong thời gian Hồ Chủ Tịch sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau. Là người Quảng Nam nhưng cụ có nhiều gắn bó với Quảng Ngãi. Đặc biệt trong những năm cuối đời, vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ở liên khu V, cụ đã sống làm việc tại huyện Nghĩa Hành, Quảng Ngãi và mất tại đây vào ngày 21/4/1947, hưởng thọ 71 tuổi. Mộ cụ Huỳnh là sự kết hợp hài hòa kiến trúc hiện đại và truyền thống lăng mộ Đông Phương, ngôi mộ vừa có nét đơn giản, vừa có sự trang trọng nghiêm kính, gắn bó hài hòa với tổng thể cảnh quan Thiên Ấn. Ở Thiên Ấn, ngoài lễ tưởng niệm cụ Huỳnh do chính quyền tổ chức hàng năm, còn có các lễ hội tôn giáo do nhà chùa và tín hữu tự đảm trách. Trong những dịp lễ lớn, số người đến viếng Thiên Ấn lên đến hàng vạn, trong đó không ít người từ phương xa về. Thắng cảnh Thiên Ấn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Mấy năm gần đây cùng với việc nhà nước đầu tư kinh phí tôn tạo mộ cụ Huỳnh, tín hữu Phật giáo cũng vận động quyên góp công sức trùng tu ngôi chùa, sửa sang tam quan… tổ chức trang trọng các ngày lễ lớn. Số người đến viếng chùa ngoạn cảnh ngày càng nhiều nhất là các ngày lễ và ngày nghỉ cuối tuần. tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free Thuyết Minh Về Một Đặc Sản Ở Quảng Ngãi – Mẫu 13 Để viết bài thuyết minh về một đặc sản ở Quảng Ngãi sẽ có rất nhiều lựa chọn và những món ăn đặc trưng của vùng đất này. Tham khảo bài thuyết minh về món ăn đặc sản ở Quảng Ngãi giới thiệu món cá bống sông Trà dưới đây Cá bống sống nhiều ở đoạn sông Trà từ đuôi xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh thẳng ra biển. Đoạn này nước sông Trà trong vắt, con cá bống lủi dưới cát trắng nên thịt dai, thơm, mình thon cỡ ngón tay út, nhưng để có món cá bống kho tiêu hảo hạng nhất thiết phải là con cá bống cát sống ở giữa sông. Ấy mới chính là cá bống sông Trà chính hiệu làm say lòng thực khách. Khoảng tháng 3 đến tháng 5 âm lịch, cá bống nhiều nhất, lúc này cá nhiều trứng, mập, béo ngậy. Người Quảng Ngãi cũng không biết cá bống có mặt ở sông Trà từ bao nhưng cứ đến tháng 1 đến tháng 8 Âm lịch hàng năm, những đàn cá bống lại ngược dòng từ cửa sông về thượng nguồn. Đây cũng là mùa đánh bắt chính của người dân. Người dân đánh bắt bằng lưới hoặc thả ống. Trên lưới có gắn các vỏ ốc, vỏ sò lớn để lưới chìm được. Thời gian kéo lưới từ 6 giờ sáng tới buổi trưa. Anh đi anh nhớ quê nhàNhớ con cá bống sông Trà kho tiêu Mặc dù món canh chua cá bống ngon nhưng kho tiêu vẫn là ngon nhất. Muốn có món cá kho tiêu ngon thì con cá phải còn sống. Cho cá vào rổ xát với muối cho sạch vẩy rồi ướp cá với chút đường, nước mắm, muối, tiêu, bột ngọt,… cho thấm trước khi kho. Nghe đơn giản nhưng phải biết cách kho nếu không cá nát hết. Để cho ra món cá kho đặc sản đúng hương vị xứ Quảng thì phải dùng các đặc sản xứ Quảng như nước mắm Kỳ Tân, đường trắng An Thới, tỏi Lý Sơn, tiêu rừng vừa thơm vừa cay. Cá được kho rim với lửa nhỏ liu riu rồi tắt bếp, cá quéo lại, thịt săn chắc, rất thơm ngon. Cá bống kho ngon nhất vẫn là kho bằng cái trách đất, niêu đất, để các hương vị được chất thổ dẫn truyền hòa quyện vào nhau, thấm cái vị thơm nồng của đất mẹ vào từng thớ cá, tạo ra một hương thơm quyến rũ khó cưỡng, khiến bụng đói cồn cào. Món cá bống kho tiêu đưa với cơm nóng, rau luộc thì thật không gì bằng. Cá kho mặn mặn ăn cùng cháo trắng hành hoa thì mồ hôi túa ra, ăn xong thấy người khoan khoái. Cá bống tự nhiên kết hợp cùng tiêu và các loại gia vị tạo thành món ăn đặc sản thơm ngon của vùng đất Quảng Ngãi, làm say lòng nhiều thực khách. Gợi ý cho bạn 🌳 Thuyết Minh Về Ninh Bình 🌳 16 Bài Giới Thiệu Ninh Bình Hay Bài Giới Thiệu Về Món Ăn Quảng Ngãi Học Sinh Giỏi – Mẫu 14 Bài giới thiệu về món ăn Quảng Ngãi học sinh giỏi viết về món mắm nhum dưới đây không chỉ cung cấp những thông tin thú vị về món đặc sản này mà còn giúp các em học sinh nắm vững phương pháp viết văn thuyết minh. “Anh than cha mẹ anh nghèoĐũa tre yếu ớt chờ quèo mắm nhum” Nhum biển, hay còn gọi là cầu gai, nhím biển được ví như “nhân sâm” của biển, đặc sản của vùng ven biển Sa Huỳnh thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Người dân nơi đây đã chế biến nhum biển thành đặc sản “mắm nhum” mà chỉ có ở Sa Huỳnh. Kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6, ngư dân ven biển xã Phổ Châu thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi vào mùa săn nhum biển trên gành rạng. Nhum thường xuất hiện ở khu vực gành Trọc, gành Nhu – hai lũy đá ở hai đầu bãi biển thôn Châu Me là nơi “bám đá” của loài nhum biển. Lúc này, ngư dân mang theo đồ nghề của một thợ lặn, tay cầm thêm một đoạn sắt dài khoảng nửa mét với một bên đầu được bẻ cong như lưỡi câu và đầu còn lại cắm vào cán gỗ dùng để nạy nhum khỏi đá. Trung bình mỗi lần đi săn nhum, ngư dân phải ngụp lặn liên tục từ sáng cho đến tận trưa nắng. Công việc vất vả, tiềm ẩn nhiều hiểm nguy khi dưới gành rạng phủ rêu trơn trượt, sơ sẩy thì chân liền giẫm phải những “quả cầu gai”, nhưng trong năm chỉ có một mùa khai thác, nên ai nấy đều dốc sức. Từ sau mùa đông thì dưới những gành rạng những con nhum bắt đầu mùa sinh sản. Trời mùa đông, biển động thuyền không thể ra gành rạng vì sóng lớn, phải qua hết mùa sinh sản, nhum dần “trưởng thành” thì ngư dân mới hành nghề bắt nhum. Nhum ở Sa Huỳnh rất ngon, có lẽ vì gặp dòng nước biển hợp nên nhum vừa béo ngậy lại vừa thơm. Sau khi bắt về, phải dùng muỗng nạo thịt nhum bên trong cho vào một cái chum lớn và bỏ muối vào tỷ lệ tương ứng, đậy thật kỹ khoảng 15-20 ngày, cho đến khi đặc sền sệt, thơm rưng rức. Mắm nhum là thứ nước chấm ngon tuyệt và là đặc sản tiến vua của người dân Quảng Ngãi xưa. Cứ khoảng 100 con nhum được 1 kg thịt và đem ủ mắm, ngày nay lượng khai thác nhum không nhiều và chỉ vào mùa thì dưới gành đá mới tìm thấy nhum. Thịt nhum chế biến được nhiều món ăn tuyệt hảo như nhum nướng, nhum sống ăn với cải bẹ xanh, tuy nhiên có lẽ mắm nhum vẫn là món được người dân địa phương yêu thích nhất. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương, mắm nhum ngon nhất khi ăn cùng thịt lợn luộc, bún và rau sống. Khi miếng thịt chấm vào tô mắm có pha chút ớt, người ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt bùi đọng trên đầu lưỡi. Từ lâu nghề bắt nhum và làm mắm nhum đã trở thành đặc sản của người dân xã Phổ Châu. Cư dân ven biển xã Phổ Châu chỉ khai thác khi đúng vụ nhum từ tháng 4 đến tháng 6, riêng cả mùa đông là mùa sinh sản thì người dân không khai thác. Mỗi người dân ở đây đều tham gia bảo vệ sự sinh sản tự nhiên của nhum. Chính vì vậy, mỗi năm, nhum luôn xuất hiện dày đặc khi vào mùa khai thác. Thời xưa, mắm nhum nằm trong danh sách những sản vật tiến vua. Và có lẽ chính vì lẽ đó mà cho tới ngày nay, mắm nhum còn có tên là mắm tiến vua hay mắm quý tộc. Với ai từng có cơ hội thưởng thức món mắm này có lẽ sẽ nhớ mãi không quên. Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Ninh Thuận ☀️ 15 Bài Đặc Sắc Thuyết Minh Về Món Don Quảng Ngãi – Mẫu 15 Đón đọc bài thuyết minh về món don Quảng Ngãi và cùng khám phá một trong những món đặc sản chỉ có ở vùng biển của vùng đất này. Có những món ăn chỉ nghe tên cũng có thể hình dung ra hương vị nhưng cũng có món dù nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần, người ta cũng chẳng tưởng tượng nổi hình thù, nguồn gốc của chúng ra sao. Don – đặc sản chỉ có ở Quảng Ngãi là một trong những món ăn như vậy. Con don là loài nhuyễn thể gần giống với hến, vỏ có hai mảnh hình dẹt và dài chỉ khoảng 1 cm, bên trong phần thịt có màu trắng đục và tua xung quanh. Don có ở sông Trà Khúc và sông Vệ nhưng phần lớn tập trung ở sông Trà Khúc. Đặc biệt, do đặc điểm dòng nước khác nhau nên con don chỉ sinh sống phần lớn ở đoạn chảy qua xã Nghĩa Hòa, Nghĩa Phú TP Quảng Ngãi – đoạn gần cuối nguồn dòng sông, còn những nơi khác hầu như không có hoặc rất ít. Thường vào mùa khô hạn khoảng từ tháng 4 đến tháng 9 hằng năm, người dân xung quanh hai con sông trên mới vào mùa cào don. Do sống vùi trong cát nên việc cào don rất cực khổ với người dân nơi đây, đặc biệt là những hôm gặp nước lớn, người cào phải ngâm mình trong nước. Don khi được cào về sẽ được chà vỏ, rửa thật sạch, ngâm cho nhả hết cát, rồi đun nước luộc cho đến khi há miệng. Sau đó, tách riêng phần nước luộc don và con don, dùng đũa khuấy đều cho phần thịt rớt ra khỏi vỏ. Sau khi đã tách vỏ, phần thịt bỏ vào nước luộc don nấu lại, tùy khẩu vị mà nêm nếm cho vừa miệng, nhưng nhất thiết phải có một chút cay the từ ớt để tăng độ kích thích. Món don sau khi chế biến xong chỉ gồm một tô nước có màu trắng đục, trong có chứa nhiều con don nhỏ xíu. Để thêm món ăn được đậm đà, tô don nhất thiết phải có ít hành tây thái mỏng và một ít bánh tráng sống hoặc chín tùy theo sở thích. Khi nhận tô don nóng hổi bốc khói, du khách dằm thêm trái ớt hiểm, đơn giản vậy nhưng đi sâu vào tâm trí của mỗi người con Quảng Ngãi khi xa quê hương. Theo những bậc cao niên, ngày xưa món don chỉ thịnh hành ở những vùng quê nghèo khó và thường được những phụ nữ luống tuổi quảy gánh đi bán dạo cho những người lao động cực khổ vào lúc xế, chiều. Có lẽ chính vì cuộc sống cơ cực, nghèo khó đó mới có món don, bởi vậy khi nhắc đến món này, nhiều người dân Quảng Ngãi hình dung đó là món ăn dân dã, nóng hổi, cay nồng như chính hơi thở, cuộc sống cực khổ của con người nơi đây… Ngày nay, khi đi ngang qua Quảng Ngãi, du khách có thể thưởng thức món don ở nhiều hàng quán khắp nơi. Còn ở những thành phố lớn như Đà Nẵng, TP HCM… món don cũng được bày bán nhưng rất ít địa điểm và không còn giữ được vị tươi ngon của don, không còn “mùi” hơi thở, “mùi” cuộc sống khổ cực của chính món don Quảng Ngãi. Với những hương vị mang nét rất riêng, món don Quảng Ngãi đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận là 1 trong 4 sản vật Quảng Ngãi. Don và cá bống sông Trà cũng nằm trong số 50 món đặc sản nổi tiếng Việt Nam. Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone Bài Viết Giới Thiệu Về Quảng Ngãi Bằng Tiếng Anh – Mẫu 16 Tham khảo bài viết giới thiệu về Quảng Ngãi bằng tiếng Anh giúp các em học sinh luyện tập cách sử dụng các cấu trúc ngữ pháp và trau dồi vốn từ vựng. Tiếng Anh Quang Ngai is a province in the Central Central Coast with the common feature of mountains encroaching on the sea, the terrain is transitional from the coastal plain in the east to the high mountainous terrain in the west. With a coastline stretching over 130km and a diversity of geology and geomorphology, Quang Ngai has created majestic and beautiful landscapes. Beautiful beaches such as My Khe, Sa Huynh, Binh Chau… and rich and unique marine ecosystems. In recent years, Quang Ngai tourism products have been increasingly diversified and the quality has been improved. Among them are products associated with sea and island tourism. This is the main type of tourism in the province. Quang Ngai is also known as a land of talented people, with a long history, steadfastness in the two resistance wars of the nation with many illustrious feats and also the birthplace of many patriotic dignitaries sages, martial generals, revolutionary activists and talented leaders of the country. Tiếng Việt Quảng Ngãi là tỉnh thuộc duyên hải Trung Trung Bộ với đặc điểm chung là núi lấn sát biển, địa hình có tính chuyển tiếp từ địa hình đồng bằng ven biển ở phía đông đến địa hình miền núi cao ở phía tây. Với đường bờ biển trải dài hơn 130km và sự đa dạng của địa chất, địa mạo đã tạo cho Quảng Ngãi những cảnh quan hùng vĩ, tuyệt đẹp. Những bãi biển đẹp như Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Bình Châu… và hệ sinh thái biển phong phú, đặc sắc. Trong thời gian qua, sản phẩm du lịch Quảng Ngãi ngày càng đa dạng, chất lượng được nâng cao. Trong đó nổi bật là các sản phẩm gắn với du lịch biển, đảo. Đây là loại hình du lịch chủ đạo của tỉnh. Quảng Ngãi còn được biết đến là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có bề dày lịch sử, kiên trung trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc với nhiều chiến công lẫy lừng và cũng là nơi sản sinh nhiều chí sĩ yêu nước, các vị hiền triết, võ tướng, các nhà hoạt động cách mạng và nhà lãnh đạo tài ba của đất nước. Tìm hiểu nhiều hơn 🔥 Thuyết Minh Về Nghệ An 🔥 19 Bài Giới Thiệu Nghệ An Hay
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung Bô, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của khu vực này. Du lịch Quảng Ngãi nổi tiếng với những bờ biển dài với những bãi tắm cát trắng mịn. Với sự nhộn nhịp của biển cả, những cánh đồng muối trải dài, ghềnh đá, hải sản,… tất cả đã tạo nên một sức hút riêng với khách du lịch khi đặt chân đến vùng đất này. Và bây giờ chúng ta hãy cùng nhau trải nghiệm chuyến đi du lịch Quảng Ngãi qua bài viết này nhé! Thời gian nào đến Quảng Ngãi thì thích hợp? Mang cho mình đặc điểm của khí hậu miền Trung. Thời tiết Quảng Ngãi có 2 mùa mùa mưa và mùa khô. Vào mùa nào thì Quảng Ngãi cùng có cho mình một vẻ đẹp riêng. Tháng 2 đến tháng 4 đây là thời điểm đầu năm. Không khí mùa xuân với những lễ hội sẽ cho bạn những trải nghiệm tuyệt vời. Tháng 5 đến tháng 7 hè về là thời gian lý tưởng để đến với những bãi biển của Quảng Ngãi. Đây cũng là thời gian tuyệt vời để khám phá Lý Sơn. Tháng 8 đến tháng 9 tiết trời thu mát mẻ thích hợp cho các chuyến tham quan Thời gian còn lại là khoảng thời gian mưa bão của miền Trung. Nếu bạn muốn đi du lịch Quảng Ngãi thời gian này thì hãy chú ý thời tiết nhé. Di chuyển bằng phương tiện gì tới Quảng Ngãi Đi bằng Máy Bay Vì hiện tại chưa có chuyến bay thẳng nên bạn có thể bay đến sân bay Chu Lai, Quảng Nam. Sau đó di chuyển bằng đường bộ về Quảng Ngãi. Đi bằng xe khách Có rất nhiều nhà xe khai thác tuyến đi này, tùy vào từng thành phố mà bạn xuất phát, giá xe dao động từ đến Tuy tốn nhiều thời gian những đây là phương tiện tiết kiệm chi phí nhất cho chuyến đi du lịch Quảng Ngãi của bạn. Đi bằng tàu hỏa Tùy vào thành phố mà bạn xuất phát và loại ghế mà bạn chọn thì giá tàu giao động từ khoảng đến 1 triệu 2 Những điểm thăm quan hấp dẫn tại Quảng Ngãi Đảo Lý Sơn Đây là một điểm thăm quan vô cùng hấp dẫn mà bạn nên ghé qua trong chuyến đi du lịch Quảng Ngãi của mình. Đảo Lý Sơn cách thành phố Quảng Ngãi tầm 40km, nơi đây nổi tiếng với biệt danh “vương quốc tỏi” bởi cây tỏi được trồng rất nhiều trên hòn đảo này. Tuy nhiên, điểm thu hút dân du lịch hơn hết chính là màu nước biển trong xanh,khung cảnh thơ mộng và đẹp đến ngỡ ngàng. Vì thế mà ở đây có rất nhiều khách sạn Lý Sơn view đẹp để ngắm nhìn bình minh sáng sớm. Đứng trước khung cảnh đó, bạn có thể cảm thấy mình thật tự do và thoải mái bởi màu xanh của biển hòa hợp cùng màu xanh của cây cỏ lúc nào cũng mang lại sự bình yên và nhẹ nhàng. Bãi biển Mỹ Khê Không chỉ Đà Nẵng có bãi biển Mỹ Khê xinh đẹp mà ở Quảng Ngãi cũng có một bãi biển cùng tên nổi tiếng không kém. Bãi biển Mỹ Khê Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 7km mà xung quanh lại được bao bọc bởi rừng dương xanh bát ngát. Theo kinh nghiệm của một số bạn đi du lịch Quảng Ngãi chia sẻ thì bạn có thể mang theo lều trại, bếp nướng để tới bãi biển này cắm trại và tổ chức tiệc nướng hải sản ngay trên bãi biển. Biển Dung Quất Những nét hồn nhiên của bờ biển cùng khung cảnh thơ mộng ở bờ biển Dung Quất luôn mang một nét gì đó độc đáo khiến cho không ít người phải cảm thấy ngỡ ngàng về sự thơ mộng yên bình của bờ biển nơi này. Có lẽ điều kỳ diệu nhất cho một hành trình khám phá mới đó là thưởng ngoạn khung cảnh mộng mơ nơi đây và thả hồn về với biển, về với thiên nhiên dịu nhẹ Biển Khe Hai Được ví như lưỡi liềm cùng những bờ cát trắng, bãi biển Khe Hai đang dần trở nên thu hút rất đông đảo các khách du lịch tới tham quan và khám phá. Sự mộng tưởng kỳ lạ hay những nét bình yên vô cùng dịu dàng luôn mang đến cho mọi người cảm giác khó quên về một vùng biển đẹp và rất bình yên thơ mộng. Đồng muối Sa Huỳnh Đồng muối Sa Huỳnh thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi vốn đã được biết đến từ lâu qua những bức ảnh vô cùng nghệ thuật của nhiều nhiếp ảnh gia trong nước và quốc tế. Nơi đây là vựa muối quan trọng của khu vực miền Trung, nghề làm muối ở Sa Huỳnh đã từng đi vào nhiều câu thơ, câu ca của Việt Nam. Khu du lịch thác Trắng Khu du lịch thác Trắng thuộc huyện Minh Long và cách thành phố Quảng Ngãi tầm hơn 20km. Khung cảnh ở đây thực sự ấn tượng bởi rừng núi hoang sơ, trong lành, dòng thác đổ xuống giữa khung cảnh bao quanh là biết bao cây cối, sông suối tung bọt trắng xóa. Đi du lịch Quảng Ngãi, bạn đừng bỏ qua nơi đây bởi bạn sẽ có ngay những bức ảnh sống ảo với view đẹp quên sầu ngay tại đây. Khu lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng Khu lưu niệm cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có vị trí tọa lạc tại xã Đức Tân – Mộ Đức – Quảng Ngãi, nơi đây đang được coi là nơi lưu giữ rất nhiều những kỷ vật, những món đồ vô cùng sâu sắc khiến không ít người khi tham quan sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ và những nét mới mẻ vô cùng. Sự đánh giá và hiểu thấu sẽ làm cho tất cả như được về cuộc sống của ngài. Những món ăn hấp dẫn ở Quảng Ngãi Bánh Bèo Nhắc đến những đặc sản ở Quảng Ngãi thì không thể bỏ qua bánh bèo. Bánh bèo Quảng Ngãi có phần giống với bánh bèo chén ở Huế nhưng bánh bèo Quảng Ngãi có vẻ đầy đặn hơn do được đúc dày hơn, phần nhân cũng được làm đậm đà hơn tạo nên nét riêng biệt của món ăn. Bánh tráng đập Ở cuối đường Trương Quang Trọng là một trong những quán ăn ngon ở Quãng Ngãi nổi tiếng với món bánh tráng đập. Bạn sẽ được thưởng thức món bánh tráng đập vừa giòn vừa dẻo này cùng với nước chấm pha theo công thức đặc biệt tuyệt vời. Món don Món don là một món ăn dân dã nổi tiếng của người Quảng Ngãi. Chỉ cần ăn một lần thôi, bạn sẽ nhớ mãi hương vị đặc biệt độc đáo chỉ có ở vùng đất này. Ram bắp Theo kinh nghiệm du lịch Quảng Ngãi, bạn nên thử đến quán ăn đường Phan Đình Phùng vì đây là một địa chỉ quán ăn ngon ở Quảng Ngãi rất nổi tiếng. Ở đây có món ram bắp gần giống với chả giò miền Bắc, điều khác biệt là ở nguyên liệu chính làm nên món Ram bắp là từ bắp ngô non. Trên đây là một số thông tin và kinh nghiệm đi du lịch Quảng Ngãi mà mình đã tìm hiểu và tổng hợp được. Mong rằng những thông tin này sẽ giúp ích cho các bạn trong tương lai. Chúc các bạn có những chuyến đi thật vui vẻ và bổ ích. MUỐN ĐI DU LỊCH HÃY ĐẾN VỚI CÔNG TY DU LỊCH SACO
Bệnh viện huyện Lý Sơn – Quãng Ngãi là một trong những địa chỉ thăm khám đa khoa uy tín chất lượng và được rất nhiều bệnh nhân khu vực huyện lựa chọn. Vậy bệnh nhân cần chú ý gì về dịch vụ cũng như chi phí tại đây? Hãy cập nhật thông tin mới nhất về bệnh viện qua bài viết của nhé! Trải qua nhiều năm xây dựng và phát triển, bệnh viện huyện Lý Sơn là nơi thăm khám của rất nhiều bệnh nhân . Trong công tác khám chữa bệnh, bệnh viện luôn là đơn vị cố gắng đạt và vượt chỉ tiêu chuyên môn được giao. Bệnh viện đã góp phần rất nhiều trong sự phát triển của nghành Y tế tỉnh nhà. Bệnh viện huyện Lý Sơn Cơ sở vật chất kỹ thuật Bệnh viện huyện Lý Sơn được đầu tư hệ thống máy móc trang thiết bị đầy đủ, cập nhật các loại máy hiện đại nhằm phục vụ quá trình khám chữa bệnh. Giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác mức độ phát triển bệnh lý. Bên cạnh đó bệnh viện còn trang bị các thiết bị y tế tiên tiến giúp quá trình thăm khám và điều trị trở nên an toàn và đạt hiệu quả hơn và tiết kiếm được rất nhiều thời gian.[elementor-template id="263870"] Đội ngũ bác sĩ Với đội ngũ bác sĩ đầu ngành, chuyên môn cao trong lĩnh vực đa khoa, Bệnh viện tự hào là nơi tập hợp của các bác sĩ giỏi, tâm huyết với nghề. Bên cạnh đó các bác sĩ còn là những người giàu y đức, có trách nhiệm, luôn làm việc vì lợi ích, sự an toàn và sức khỏe của bệnh nhân. Không những thế, bệnh viện còn tổ chức các lớp bồi dưỡng về y nghiệp và y đức cho các cán bộ, nhân viên y tế của bệnh viện, nhằm cập nhật, nâng cao nhận thức để mỗi người tự ý thức được trách nhiệm của mình trong việc chăm lo sức khỏe cho người bệnh, ngày một đem lại sự hài lòng cho người bệnh. Quy trình khám Bệnh viện huyện Lý Sơn tham khảo Bước 1 Người bệnh đến trực tiếp quầy tiếp nhận thông tin, điền đầy đủ thông tin vào phiếu khai thông tin như tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại liên lạc ,… Bước 2 Sau khi cung cấp thông tin, lấy số thứ tự của mình và được hướng dẫn ngồi chờ Bước 3 Bệnh nhân ngồi tại ghế chờ theo số thứ tự. Bước 4 Nộp phiếu khai thông tin tại quầy đăng nhập để làm hồ sơ khám. Bước 5 Đợi đến số thứ tự của mình và vào khám Bước 6 Làm theo chỉ định của bác sĩ siêu âm, xét nghiệm,… nếu có Bước 7 Nộp phí siêu âm, xét nghiệm nếu có Bước 8 Lên phòng khám siêu âm, xét nghiệm và đợi kết quả Bước 9 Lấy kết quả và quay trở lại phòng khám gặp bác sĩ Bước 10 Lấy toa thuốc và tới nhà thuốc mua thuốc, thanh toán rồi ra về Thời gian khám chữa bệnh Bệnh viện làm việc theo giờ hành chính nhà nước. Cấp cứu 24/24 Lưu ý Việc nắm rõ thời gian khám sẽ giúp người bệnh sắp xếp thời gian phù hợp, đỡ phải chờ đợi lâu. Thông tin liên hệ Địa chỉ TT. Ba Tơ, Ba Tơ, Quảng Ngãi. Điện thoại 055.863 237 Nguồn tham khảo Như vậy, đã có cập nhật mới nhất về Bệnh viện huyện Lý Sơn. Hy vọng các bạn luôn vui khỏe và lựa chọn được địa chỉ điều trị bệnh an toàn và hiệu quả để có thể có sức khỏe tận hưởng cuộc sống trọn vẹn. Ngoài ra, để chuẩn bị tốt cho việc thăm khám, chăm sóc bệnh cho bạn và người thân, bạn có thể tham khảo thêm Địa chỉ khám bệnh uy tín gần bạn Bác sĩ giỏi từ các bệnh viện uy tín trên cả nước Thông tin về bệnh viện công, bệnh viện tư uy tín Thông tin về phòng khám có bác sĩ giỏi Xem thêm Bệnh viện Đa khoa Lục Nam – Bắc Giang Thông tin chi tiết Bệnh viện Đa khoa Sơn Động – Bắc Giang có tốt không ? Có nên khám ở Trung tâm Y tế Lạng Giang – Bắc Giang? Thông tin chi tiết về Trung tâm Y tế Hiệp Hòa – Bắc Giang
Quảng Ngãi Điều kiện tự nhiên Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng duyên hải miền Trung, lưng tựa vào dãy Trường Sơn, mặt hướng ra biển Đông, phía bắc giáp Quảng Nam, phía nam giáp Bình Định, phía tây nam giáp Kon Tum. Bờ biển Quảng Ngãi dài 135km, ngoài khơi có đảo Lý Sơn. Địa hình có 4 vùng vùng núi, vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng hải đảo. Các sông chính chảy qua tỉnh là sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, sông Vệ. Nhiệt độ trung bình năm từ 25,5ºC – 26,5ºC, nhiệt độ cao nhất lên đến 41ºC và thấp nhất là 12ºC. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8 và lạnh nhất từ tháng 1 đến tháng 3. Tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch Thành phố Quảng Ngãi được xây dựng trên bờ sông Trà Khúc. Từ xa xưa đã có những bánh xe nước to lớn quay suốt ngày đêm, vừa tô đẹp cho phong cảnh, vừa cấp nước cho các ruộng lúa, ruộng mía, nguyên liệu làm ra các loại đường cát, đường phèn, đường phổi, mạch nha, kẹo gương nổi tiếng đất nước. Quảng Ngãi có cảng Dung Quất, một cảng lớn có độ sâu lý tưởng đang được khởi công xây dựng. Trong tương lai Dung Quất sẽ trở thành một cảng dầu khí lớn nhất Việt Nam cùng với thành phố Vạn Tường hiện đại. Quảng Ngãi mảnh đất giàu tiềm năng đang chờ đợi đầu tư hơn nữa để trở thành một trong những trung tâm phát triển ở miền Trung và là điểm du lịch thu hút khách trong và ngoài nước. Quảng Ngãi là tỉnh có nền văn hoá lâu đời, nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh như cảnh đẹp núi Ấn, sông Trà Khúc, Cổ Luỹ Cô thôn rợp mát bóng dừa, bãi tắm Sa Huỳnh nước trong xanh, cát trắng, lộng gió, di tích kiến trúc thành cổ Châu Sa, nằm kề bên bờ bắc của sông Trà gần cửa biển, các di tích văn hoá Sa Huỳnh, mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng… Đến Quảng Ngãi, du khách có dịp thăm lại chiến trường xưa, những di tích lịch sử như căn cứ địa Ba Tơ, chiếc nôi cách mạng ở miền Trung; di tích khởi nghĩa Trà Bồng, vùng đất của những rừng quế bạt ngàn; chứng tích tội ác chiến tranh Sơn Mỹ; chiến thắng Ba Gia; chiến thắng Vạn Tường, với nhiều dấu tích chiến trường xưa oanh liệt. Giao thông Ở vào vị trí chính giữa của đất nước cách thủ đô Hà Nội 889km, Quảng Ngãi có đường sắt Bắc Nam và quốc lộ 1A chạy qua tỉnh, có quốc lộ 24A nối Quảng Ngãi với Tây Nguyên, Lào và vùng đông bắc Thái Lan. Di tích – Danh Thắng – Văn Hoá – Điểm tham quan Giới thiệu * Gỏi tỏi Điểm tham quan Di tích lịch sử, văn hoá * Chùa Ông * Di tích lịch sử Sơn Mỹ * Thành Châu Sa Thắng cảnh * Bãi biển Mỹ Khê ở Quảng Ngãi * Bãi biển Sa Huỳnh * Núi Răng Cưa * Núi Thiên Ấn và sông Trà Khúc Du lịch văn hoá * Di chỉ khảo cổ giai đoạn Hậu kỳ đồ đá mới’
Giới thiệu khái quát thành phố Quảng Ngãi Thành phố Quảng Ngãi là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, được đặt làm tỉnh lỵ. Thành phố Quảng Ngãi nằm ở phía đông tỉnh, hữu ngạn sông Trà Khúc, tại tọa độ địa lí 180o48’Đ và 15o08’B. Ba phía đông, tây, nam đều giáp huyện Tư Nghĩa, phía bắc giáp huyện Sơn Tịnh qua sông Trà Khúc; có Quốc lộ 1 và đường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích 37,12km². Dân số người năm 2005. Mật độ dân số người/km²1. Đơn vị hành chính trực thuộc gồm 2 xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng; 8 phường Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Chánh Lộ, Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh, với 166 thôn, tổ dân phố; trong đó Phường Nguyễn Nghiêm có 13 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 13; Phường Trần Hưng Đạo có 18 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 18; Phường Lê Hồng Phong có 14 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 14; Phường Trần Phú có 24 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 24; Phường Chánh Lộ có 20 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 20; Phường Quảng Phú có 26 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 26; Phường Nghĩa Lộ có 22 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 22; Phường Nghĩa Chánh có 19 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 19; Xã Nghĩa Dũng có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 đến thôn 6; Xã Nghĩa Dõng có 4 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 đến thôn 4. Địa hạt thành phố Quảng Ngãi có dân cư, hình thành làng mạc từ lâu đời. Nơi đây được đặt làm tỉnh lỵ từ năm 1807, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, vị trí địa lý, thành phố Quảng Ngãi vẫn là một đô thị phát triển muộn so với nhiều đô thị khác trong nước. Sự phát triển muộn xét về mặt nào đó có một số thuận lợi nhất định, nhưng bao trùm vẫn là một khó khăn lớn trên đường phát triển. Về hành chính, thành phố Quảng Ngãi trải qua nhiều thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. Toàn bộ địa hạt thành phố Quảng Ngãi xưa kia đều thuộc huyện Chương Nghĩa. Tỉnh thành Quảng Ngãi Vùng trung tâm nội thị của thành phố Quảng Ngãi vốn là xã Chánh Mông sau đổi là Chánh Lộ, tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa. Từ năm Gia Long thứ 6 1807, tỉnh thành Quảng Ngãi được dời về đây. Năm Gia Long thứ 14 1815, thành được xây bằng đá ong. Thành có 3 cửa Tây, Đông, Bắc chưa rõ vốn có cửa Nam hay không; tỉnh thành do các kiến trúc sư Pháp theo giúp Gia Long thiết kế được xây dựng theo kiểu vôbăng vauban của Pháp, bình đồ vuông, chu vi 500 trượng hai thước 2000m; cao một trượng 4m, bốn phía có hào thành áp sát bờ thành rộng 5 trượng 20m. Thành có một trục dọc xẻ đôi thành từ cửa Tây đến cửa Đông nay là đường Lê Trung Đình, chia thành ra hai phần nam, bắc, trong đó phần phía nam nhỏ bằng 1/2 của phần phía bắc. Từ ngoài vào thành có cầu bắc qua hào, có cổng thành. Các cơ quan đầu não của tỉnh nằm gọn trong thành. Theo trục đường từ phía tây đi xuống phía đông, phía tay trái phần phía bắc ở giữa có dinh Tuần vũ, phía tây là dinh Án sát, phía đông có dinh Lãnh binh, nhà lao, nhà thương ở phía sau; từ khi thực dân Pháp đô hộ, có thêm Nhà Dây thép Bưu điện, Sở Lục lộ… Phía tay phải phần phía nam đường có Hành cung nơi vua ngự trên đường công cán, đối diện với dinh Tuần vũ; về sau, ở phía đông có tòa Công sứ, phía tây có đồn Khố Xanh. Theo tài liệu Quảng Ngãi tỉnh chí do Tuần vũ Quảng Ngãi Nguyễn Bá Trác chủ trương, biên soạn năm 1933, tại nội thành Quảng Ngãi có số nhà tư là 87 nóc với số người là 584 người, nhà tranh làm liền kề bên nhau của các công chức làm việc trong thành. Thời Nhật chiếm đóng, quân Nhật đóng quân cố thủ trong thành khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, sau phải rút đi. Năm 1947, thành được san bằng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Về tỉnh thành Quảng Ngãi trước khi dời về xã Chánh Mông, sách Đại Nam nhất thống chí cũng như các sách cổ khác đều ghi là ở xã Phú Nhơn, huyện Bình Sơn nay thuộc huyện Sơn Tịnh, đầu niên hiệu Gia Long 1802 dời đến xã Phú Đăng huyện Chương Nghĩa. Xã Phú Nhơn nay thuộc thị trấn huyện lị Sơn Tịnh, nằm ở bắc sông Trà Khúc, gần sát với tỉnh lỵ Quảng Ngãi ngày nay. Tuy vậy, ở đây không còn dấu vết gì vì có lẽ tỉnh thành hồi ấy chỉ xây dựng tạm bợ. Còn Phú Đăng có thể là một địa điểm cách thành phố Quảng Ngãi 10km về phía đông, nằm bên sông Phú Thọ. Sách bản đồ cổ Lê Hoàng triều kỷ có ghi rõ bên dòng sông này có nhà kho Phú Đăng Phú Đăng khố. Nơi đây xưa là được coi là cảng biển chính của tỉnh Quảng Ngãi. Tuy vậy, cho đến nay chưa thấy dấu vết nào của tỉnh thành, có lẽ vì tỉnh thành được đặt ở đây trong một thời gian quá ngắn ngủi 1802 – 1807 nên chưa kịp xây dựng gì. Hiện nay, dù không còn, nhưng dấu vết xưa của thành Quảng Ngãi ở Chánh Lộ vẫn còn rõ. Đó là các hào thành, các địa điểm Cửa Tây, Cửa Đông, Cửa Bắc. Khuôn viên nội thành nay là một số cơ quan của tỉnh và khu dân cư. Tỉnh lỵ Quảng Ngãi dời về xã Chánh Mông tính đến năm 2007 là tròn 200 năm, tính từ năm 1807. Nhưng tỉnh thành Quảng Ngãi chỉ là một phần nhỏ của xã Chánh Mông, địa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay rộng lớn hơn nhiều. Địa bàn thành phố Quảng Ngãi Địa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay khá rộng, gồm các thôn xã xưa xã Ba La, thôn Ngọc Án, xã Chánh Mông, châu Vạn Tượng, xã Thu Phố, xã Đại Nham, châu Phù Khế thuộc các tổng Nghĩa Hạ, Nghĩa Châu của huyện Chương Nghĩa. Xã Chánh Mông nguyên có tên là xã Cù Mông, đời Gia Long thuộc tổng Trung, sau thuộc về tổng Nghĩa Điền huyện Chương Nghĩa, có 815 mẫu ruộng đất. Đời Minh Mạng, Cù Mông đổi là Chánh Mông. Đời vua Đồng Khánh 1885 – 1888 để tránh tên húy, xã Chánh Mông đổi tên là xã Chánh Lộ. Xã Ba La đời vua Gia Long thuộc về tổng Trung, sau thuộc tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa, có 698 mẫu ruộng đất. Châu Vạn Tượng cũng thuộc tổng Trung, sau về tổng Nghĩa Hạ, đời Gia Long có gần 123 mẫu ruộng đất. Xã Thu Phố đời Gia Long thuộc tổng Thượng, sau thuộc về tổng Nghĩa Trung, có 216 mẫu ruộng đất. Đến trước năm 1945, diện tích xã Thu Phố có đến mẫu Trung Bộ với số dân người. Xã Đại Nham và châu Phù Khế nhỏ hẹp, nằm sát bãi sông Trà Khúc. Đô thị Quảng Ngãi manh nha hình thành ở phía tây thành, gọi là Chánh Lộ phố. Cho đến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí chép rằng “Thành phố Quảng Ngãi số nhà đếm được là 331 cái và số người là người, vừa lớn, nhỏ, đàn ông, đàn bà”. Ngày Âm lịch năm Bảo Đại thứ 9 có dụ số 23 của vua Bảo Đại quyết định thiết lập một đô thị trung tâm cùng tên, thay cho tỉnh thành Quảng Ngãi “bị tước danh tịch”. Đô thị này mở rộng lên hướng tây, rộng 133ha thuộc xã Chánh Mông và xã Thu Phố, phía tây đến ga và đường sắt Quảng Ngãi vừa mới xây dựng. Đến trước năm 1945, ở xã Chánh Lộ, bên ngoài tỉnh thành có Chánh Lộ phố gồm các phường Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, sau đó có thêm phường Thu Lộ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chánh Lộ phố được quyết định thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh. Các làng xã khác như đã kể trên vẫn thuộc huyện Tư Nghĩa. Sau kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng thực hiện tiêu thổ kháng chiến, các cơ quan tỉnh sơ tán về các vùng quê xa, đơn vị thị xã Quảng Ngãi nhập chung với xã Nghĩa Lộ huyện Tư Nghĩa.. Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, chính quyền Sài Gòn thành lập xã Cẩm Thành với 4 ấp Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, Thu Lộ. Theo Nghị định số 314-BNV/HC/NĐ ngày của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa chính quyền Sài Gòn thì Cẩm Thành vẫn thuộc quận huyện Tư Nghĩa, có ghi chú thêm “xã này có thể đặt trực thuộc tòa tỉnh trưởng”. Nhưng theo các văn bản hành chính, cho đến tháng các vùng ven vẫn thuộc quận huyện Tư Nghĩa. Tháng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phía kháng chiến thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi để đẩy mạnh phong trào cách mạng trong đô thị. Từ năm 1968, ở phía kháng chiến, địa bàn thị xã Quảng Ngãi ngoài 4 ấp nội thị được tính gồm cả xã Nghĩa Lộ, xã Nghĩa Điền, xã Nghĩa Dõng huyện Tư Nghĩa và thôn Đông Dương của xã Tịnh Ấn huyện Sơn Tịnh. Sau ngày thị xã Quảng Ngãi được giải phóng đơn vị hành chính được điều chỉnh, gồm 4 phường, 3 xã như sau ấp Bắc Môn đổi thành phường Lê Hồng Phong; ấp Bắc Lộ đổi thành phường Trần Hưng Đạo; ấp Nam Lộ đổi thành phường Nguyễn Nghiêm; ấp Thu Lộ đổi thành phường Trần Phú; xã Nghĩa Lộ xã Tư Chánh thời chính quyền Sài Gòn; xã Nghĩa Điền xã Tư Quang thời chính quyền Sài Gòn; xã Nghĩa Dõng xã Tư Bình thời chính quyền Sài Gòn. Riêng thôn Đông Dương trả về cho xã Tịnh Ấn. Ngày thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa với số xã phường kể trên và 11 xã của huyện Tư Nghĩa. Tháng xã Nghĩa Lộ tách lập thành 2 xã Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh. Cuối năm 1981, thị xã Quảng Nghĩa tái lập thành 2 đơn vị thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa và có sự điều chỉnh địa giới hành chính so với trước. Thị xã Quảng Ngãi có 4 phường Lê Hồng Phong, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Nghiêm, Trần Phú và 5 xã Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh, Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng. Trong đó, xã Quảng Phú mới thành lập gồm 3 thôn của xã Nghĩa Điền một phần xã Nghĩa Điền giao về cho huyện Tư Nghĩa là Thu Phổ Đông, Thu Phổ Tây, Thạch Phổ các thôn này trước năm 1945 thuộc xã Thu Phố; xã Nghĩa Dũng được tách từ xã Nghĩa Dõng cũ, xã Nghĩa Dõng tương đương với xã Ba La xưa, xã Nghĩa Dũng tương đương với châu Vạn Tượng và một phần xã Ba La, các làng Đại Nham, Phù Khế. Tháng tỉnh Quảng Ngãi được tái lập. Thị xã Quảng Ngãi trở thành tỉnh lỵ như trước. Tháng xã Nghĩa Lộ được tách lập làm phường Chánh Lộ và xã Nghĩa Lộ. Năm 1994, xã Nghĩa Lộ đổi thành phường Nghĩa Lộ. Xã Quảng Phú cũng được đổi là phường Quảng Phú. Cho đến cuối năm 2004, thị xã Quảng Ngãi có 8 phường, 2 xã như đã kể trên. Các khối phố đổi ra nhiều tổ dân phố. Năm 2002, thị xã Quảng Ngãi được công nhận đô thị loại 3 và đến ngày có Nghị định của Chính phủ thành lập thành phố trực thuộc tỉnh. Về tự nhiên,2. Phía đông – đông nam núi Bút có hòn Nghiên, quen gọi là hòn Mu Rùa, hiện có một đơn vị điện lực đóng. Phía nam – tây nam có một gò đồi, xưa gọi là núi Sơn Xuyên vì có đàn Sơn Xuyên thờ sông núi, sau gọi là Quy Sơn, vì có Quy Sơn Tự do Nguyễn Hữu Mưu lập từ đời Nguyễn. Núi Trấn Công, tục gọi là núi Ông hay núi Ông Trấn, trước kia gọi là núi Phước hay Phước Lãnh, hay Ngũ Phước, tương truyền có nhiều dơi, là loài vật được xem gắn với phúc. Núi nằm ở phía tây thành phố thuộc phường Quảng Phú, chân ngâm vào sông Trà Khúc. Núi Trấn Công xưa có lăng thờ Trấn Quận công Bùi Tá Hán, danh tướng đời Lê Trung hưng. Về sau, do xây dựng Nhà máy Đường Quảng Ngãi nên đền thờ phải dời về Rừng Lăng. Đại bộ phận đất đai của thành phố Quảng Ngãi là đồng bằng, có độ cao từ 4 – 9m so với mặt biển, trong đó vùng phía tây phường Quảng Phú cao hơn cả. Khí hậu thành phố Quảng Ngãi mang đặc trưng chung của vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Về dân cư Tính đến năm 2005, cư dân thành phố Quảng Ngãi có người. Diện tích tự nhiên, dân số, mật độ dân số cụ thể của từng xã, phường như sau3 TT Xã, phường Diện tích tự nhiên km2 Dân số người Mật độ dân số người/km2 1 Phường Lê Hồng Phong 3,38 2 Phường Trần Phú 2,179 3 Phường Trần Hưng Đạo 0,52 4 Phường Nguyễn Nghiêm 0,525 5 Phường Nghĩa Lộ 4,01 6 Phường Chánh Lộ 2,57 7 Phường Quảng Phú 7,27 8 Phường Nghĩa Chánh 4,03 9 Xã Nghĩa Dõng 6,06 10 Xã Nghĩa Dũng 6,62 Tổng số 37,12 Trong số người dân ở thành phố Quảng Ngãi thời điểm năm 2005, chỉ có 425 người Hrê, 110 người Cor, 1 người Ca Dong từ các huyện miền núi trong tỉnh mà phần nhiều trong số này là lớp trẻ đang theo học trường dân tộc nội trú tỉnh nằm trên địa bàn phường Quảng Phú và 28 người thuộc các dân tộc khác theo vợ, chồng về thành phố sinh sống. Tuyệt đại đa số dân cư ở thành phố Quảng Ngãi là người Việt. Xưa kia, trên địa bàn này có lớp dân cư cổ sinh tụ là người Chăm. Về sau, thị xã Quảng Ngãi có thêm một ít người Việt gốc Hoa, Ấn kiều. Thời thuộc Pháp có thêm một số quan chức Pháp, thời chính quyền Sài Gòn kiểm soát có một số viên chức dân sự và quân sự Mỹ; từ sau 1975, có thêm một số đồng bào dân tộc thiểu số miền núi trong tỉnh và từ các tỉnh khác về cư ngụ, nhưng đều không nhiều4. Thời chính quyền Sài Gòn, vào khoảng giữa năm 1962, vùng nội thành Quảng Ngãi gồm 4 ấp có số dân người với gia đình. Cụ thể ấp Bắc Môn có người với 225 gia đình; ấp Bắc Lộ có người với 535 gia đình; ấp Nam Lộ có người với 666 gia đình; ấp Thu Lộ có người với 311 gia đình. Vùng ngoại thành có tổng cộng người với gia đình. Cụ thể xã Tư Quang chỉ tính hai ấp Thu Phổ Đông, Thu Phổ Tây, sau này là phường Quảng Phú có người với 824 gia đình; xã Tư Bình sau này là hai xã Nghĩa Dõng, Nghĩa Dũng có người với gia đình; xã Tư Chánh sau này là các phường Nghĩa Chánh, Nghĩa Lộ, Chánh Lộ có người với gia đình. Tổng cộng cả vùng nội và ngoại thành tính theo địa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay có người với gia đình. Vào thời điểm chiến tranh nổ ra ác liệt, dân cư các huyện trong tỉnh tập trung ở địa hạt thành phố rất đông. Vào thời điểm tháng ở xã Cẩm Thành nội thị có đến người, xã Tư Chánh có người, xã Tư Quang có người, xã Tư Bình có người, tổng cộng cả nội thị và ngoại vi có đến người. Đến năm 1975, giải phóng toàn tỉnh, số dân tạm trú lần lượt trở về quê cũ5. Cư dân thành phố Quảng Ngãi xưa có người Chăm qua các dấu tích còn sót lại. Cư dân Việt làm nông và dấu ấn nông nghiệp cho đến nay vẫn còn rất rõ. Thành phố Quảng Ngãi được đô thị hóa khá muộn, nên các ngành nghề công nghiệp, thương mại, dịch vụ cũng chỉ mới hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ XX về sau và đang có xu hướng tăng nhanh. Dân cư Việt ở thành phố Quảng Ngãi xưa vốn giỏi về nghề nông, đặc biệt giỏi về việc làm bờ xe nước dọc sông Trà Khúc. Người dân ở đây cũng rất hiếu học, với nhiều người học giỏi, đỗ đạt cao, trong đó nổi bật có các “danh tộc”, như tộc Bùi của Bùi Tá Hán, tộc Tạ của Tạ Tương ở Nghĩa Lộ, tộc Nguyễn ở Vạn Tượng, Nghĩa Dũng của Nguyễn Duy Cung, tộc Nguyễn ở Ba La Nghĩa Dõng… Một đặc điểm quan trọng của cư dân thành phố Quảng Ngãi ngày nay là tỉ lệ cư dân chuyển từ các huyện về khá cao, do tốc độ đô thị hóa đang diễn ra tương đối nhanh. Sự biến đổi dân số ở thành phố Quảng Ngãi là số dân di chuyển cơ học nhiều, do vậy bên cạnh việc xem xét mức độ tăng giảm dân số tự nhiên, sự tăng giảm cả chuyển đi và chuyển đến dân số cơ học là không thể bỏ qua. * * * Về truyền thống yêu nước của cư dân thành phố Quảng Ngãi, người ta thấy có những dấu hiệu có thể là dấu vết của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII qua các địa danh như Tàu Tượng, bãi Ông Bành, Bàu Voi, khu Mả Voi, có thể là những dấu tích về tượng binh thời Tây Sơn. Trong phong trào Cần vương 1885 – 1896, các thủ lĩnh Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Thái Thú, Trần Du… đều lấy tỉnh thành Quảng Ngãi làm mục tiêu tấn công và đều được sự ủng hộ của dân cư ở quanh vùng. Ông Bùi Phụ Cát người xã Thu Phố vận động hương binh ở xã, ông Nguyễn Viện người xã Chánh Mông nằm trong phiên chế triều đình đều hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân tháng và bị chém, bị giam cầm đến chết. Trong phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX, địa bàn thành phố Quảng Ngãi là một trọng tâm hoạt động và có cơ sở của phong trào, như hoạt động của Tú tài Trần Kỳ Phong người Châu Me, Bình Sơn, Cử nhân Lê Tựu Khiết người An Ba, Nghĩa Hành… Năm 1908, dân cư ở các huyện trong tỉnh Quảng Ngãi rầm rộ kéo về tỉnh thành để “cự sưu khất thuế” chống sưu thuế thành biển người vây bọc lấy tỉnh thành, với sự tham gia ủng hộ và giúp đỡ của rất đông người dân sở tại. Trong phong trào Việt Nam Quang phục Hội, các chí sĩ lãnh đạo phong trào ở Quảng Ngãi cũng xác định mục tiêu tấn công thành Quảng Ngãi, nhưng cuộc khởi nghĩa chiếm thành năm 1916 bại lộ và hàng loạt chí sĩ đã hy sinh vì nước ngay tại đây. Tỉnh thành Quảng Ngãi cũng là nơi giam cầm nhiều chiến sĩ cộng sản, trong đó có nhiều người là cán bộ lãnh đạo, kể từ 1930, trong số đó có đồng chí Nguyễn Nghiêm – Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh và nhiều người đã hy sinh tại đây. Trong kháng chiến chống Pháp, thành Quảng Ngãi được san phẳng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, địa bàn thành phố Quảng Ngãi là nơi có trung tâm đầu não của địch ở tỉnh Quảng Ngãi, nhưng phong trào yêu nước và cách mạng vẫn phát triển phong trào bí mật hoạt động ngay trong nội thị, vùng ven, các phong trào đấu tranh công khai chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cuộc biểu tình lớn năm 1974. Thành phố Quảng Ngãi là quê hương, nơi hoạt động của các nhân vật lưu danh trong lịch sử như Bùi Tá Hán, Nguyễn Duy Cung… Đơn vị thị xã Quảng Ngãi đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày hai xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng được phong tặng danh hiệu cao quý này ngày Thành phố Quảng Ngãi có 40 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. * * * Về kinh tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt động kinh tế, là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi xưa và nay. Tuy vậy, do hoàn cảnh là một đô thị phát triển muộn, nông nghiệp ở địa bàn thành phố Quảng Ngãi trước đây còn chiếm một tỷ trọng đáng kể. Hiện nay, cơ cấu kinh tế chuyển đổi dần và các lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – thương mại – dịch vụ đã chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm ở thành phố Quảng Ngãi trong giai đoạn 2000 – 2004 là 14,67%. Cơ cấu kinh tế ở thành phố Quảng Ngãi hiện nay được xác định là công – thương – nông nghiệp. Nghề nông Nghề nông tuy không còn chiếm tỉ trọng cao trong kinh tế, nhưng là ngành kinh tế lâu đời nhất và vẫn là nguồn sống quan trọng của một bộ phận dân cư ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay. Nếu xét ở quá khứ chưa xa, thì nghề nông càng có vai trò quan trọng và có nhiều điều đáng chú ý. Đất đai ở địa bàn thành phố được phù sa sông Trà Khúc bồi đắp hằng năm, khá màu mỡ. Ngoài việc trồng lúa, mía, nhiều cây trồng vật nuôi khác cũng rất đáng kể. Thời Pháp thuộc, ở gần cầu Trà Khúc có bãi đất trồng thí nghiệm giống lúa mới, có trại thí nghiệm nuôi tằm, có Sở Thú y để chọn giống, phòng chữa bệnh trâu, bò, heo. Người nông dân ở các làng quê xưa chủ yếu trồng lúa, mía, ngô, rau, đậu ở ven sông để sinh sống. Người dân các làng ở thành phố xưa vốn tự hào về những đồng lúa rộng, đất đai màu mỡ, như về cánh đồng Ba La Ba La chạy tới Cù Mông Chạy quanh chạy quéo cũng về đồng Ba La. Lúa là cây lương thực chính. Sản lượng lúa cả năm 2005 đạt tấn, tổng sản lượng lương thực có hạt là tấn. Do là nơi tập trung lao động phi nông nghiệp rất lớn nên bình quân lương thực đầu người chỉ đạt 97kg, đất nông nghiệp chỉ có Trong sản lượng lương thực, ngô tấn chiếm gần 1/3. Cây mía vẫn được duy trì ở mức thấp với chỉ 100ha. Cây lạc có 130ha với sản lượng 305,10 tấn, rau tấn trong đó xã Nghĩa Dũng tấn, Nghĩa Dõng tấn. Trong điều kiện một thành phố đang đô thị hóa, thì diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, thời điểm năm 2005, diện tích đất nông nghiệp còn trừ 570,58ha đất trồng cây lâu năm, chỉ còn gần đất trồng cây hàng năm. Trong số ấy, các phường ở khu vực trung tâm là Lê Hồng Phong, Trần Phú, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Nghiêm có diện tích không đáng kể, mỗi xã, phường còn lại có từ 150 – 400ha. Các vật nuôi chính là trâu, bò, heo, gà. Tuy vậy, với điều kiện đất canh tác chật hẹp, chăn nuôi cũng khó phát triển. Tính ở thời điểm năm 2005, thành phố chỉ có 212 con trâu, con bò, con lợn. Về gia cầm có số lượng tương đối nhiều, gà con, vịt con. Trong nông nghiệp, việc làm thuỷ lợi từ xưa đã khá nổi bật với các bờ xe nước ở dọc hữu ngạn sông Trà Khúc, với việc đào kênh Tư Nghĩa nối sông Trà Khúc với sông Bàu Giang ở phía tây thành phố trong kháng chiến chống Pháp, với việc đào đắp kênh mương Thạch Nham sau năm 1975. Về bờ xe nước, năm 1939 ở Thu Phố từng có bờ xe nước 9 bánh, tưới được 150 mẫu ruộng, số hoa lợi thu được ang lúa, tiền làm xe, số lợi nhuận đều cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi6. Ở Ba La xưa từng có bờ xe đôi. Năm 1888, ông Võ Văn Giu quê làng Ba La xin dựng xe nước ở Chánh Lộ, cũng là bờ xe đôi, để tưới cho đồng lúa Bàu Lân, Thông Viên, Cổ Đồng. Xe nước tiếp tục được dựng đặt hằng năm cho tới sau năm 1975 mới chấm dứt. Xưa kia, địa hạt thành phố Quảng Ngãi còn khá nhiều rừng như rừng Lăng, rừng trên núi Thiên Bút, có cả thú rừng ở Thu Phổ vẫn còn lưu dấu chân hổ trên khu mộ cụ Bùi Tá Triều, đời vua Minh Mạng. Hiện nay, ở núi Ông, núi Bút đã và đang hình thành các lâm viên rừng trồng. Ngoài việc làm nông, người nông dân trên địa bàn xưa kia còn tiến hành đánh bắt cá trên sông Trà như một nguồn thu nhập đáng kể. Cho đến nay, quá trình đô thị hóa khiến đất đai canh tác bị dần thu hẹp. Nông nghiệp chủ yếu duy trì ở các phường xã vùng ven như phường Quảng Phú phía tây, xã Nghĩa Dũng, xã Nghĩa Dõng ở phía đông, phường Nghĩa Lộ, Chánh Lộ ở phía nam. Ở các xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng, bên cạnh việc duy trì nghề nông với canh tác còn mang đậm dấu ấn cổ truyền có cải tiến, người ta còn chú ý đến phát triển công thương nghiệp, dịch vụ, kinh tế vườn, thâm canh trồng rau xanh, trồng hoa, cây cảnh… cung cấp cho vùng nội thị một lượng nông sản hàng hóa rất đáng kể. Tính đến năm 2005, trong tổng số lao động ở thành phố Quảng Ngãi, lao động nông nghiệp chiếm người, tuy tỷ lệ chỉ trên 10%, nhưng về số lượng vẫn khá lớn. Tiểu thủ công nghiệp Trong hoạt động kinh tế xưa kia, ở địa bàn thành phố Quảng Ngãi hoạt động kinh tế tiểu thủ công nghiệp cũng khá đáng kể. Tập Địa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn viết năm 1939 ghi nhận nghề làm đường cát, đường phèn ở Vạn Tượng, Chánh Lộ, nghề dệt ở Chánh Lộ, nghề mộc ở tỉnh lỵ “Tại tỉnh lỵ có vài ba cửa hàng đóng bàn ghế theo kiểu tân thời, đánh xia bóng nhoáng trông rất đẹp” trang 20. Nhưng nổi tiếng nhất là các nghề làm đường muỗng và các nghề phổ biến khác, sản xuất các loại đường kẹo đặc sản như đường phèn, đường phổi ở Ba La, Vạn Tượng, các món ăn đặc sắc như cá bống sông Trà, don Vạn Tượng. Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu. ca dao Con gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng. ngạn ngữ Trải qua thời gian, các nghề thủ công truyền thống ở thành phố Quảng Ngãi vẫn được duy trì, đồng thời các nghề mới hình thành, thịnh hành như các nghề may mặc, nhôm sắt, đồ gỗ… phổ biến trong phạm vi gia đình, nhưng cũng đã có nhiều cơ sở trở thành doanh nghiệp. Đặc biệt, nghề chế biến món bò khô Quảng Ngãi đã nổi tiếng không chỉ ở thị trường trong tỉnh mà sản phẩm của nó còn lan ra nhiều vùng trong nước. Điều đáng lưu ý là các ngành nghề thủ công cổ truyền chế biến đường kẹo đặc sản như kẹo gương, đường phèn, đường phổi, mạch nha… từ vùng ven và các vùng quê trong tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng hội tụ về thành phố Quảng Ngãi, trong khi ở quê gốc chỉ hoạt động cầm chừng hoặc gần như không còn. Môi trường thành phố Quảng Ngãi có thể là mảnh đất tốt để các nghề này duy trì và phát triển trong điều kiện mới. Hiện trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi có nhiều cơ sở chế biến và nhiều cửa hàng bán các món đặc sản như bánh nổ, bánh in, bò khô, các loại đường phèn, đường phổi, kẹo gương, mạch nha, cá bống sông Trà khá thịnh đạt. Đây cũng chính là một điều kiện để thành phố đa dạng hóa các ngành nghề. Công nghiệp Mặc dù là ngành sản xuất hình thành muộn nhưng công nghiệp ở thành phố Quảng Ngãi có sự phát triển nhanh và rõ nét nhất. Trước kia, cơ sở công nghiệp ở thành phố Quảng Ngãi hầu như không có. Đến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, cơ sở công nghiệp đáng kể duy nhất xuất hiện là Nhà máy đường Thu Phổ, Công ty Đường Quảng Ngãi, xây dựng ở chân núi Ông. Từ năm 1975, các ngành nghề công nhiệp mới dần hình thành và khu công nghiệp Quảng Phú ở phía tây thành phố được thành lập. Đây là một trong ba khu công nghiệp tập trung do tỉnh Quảng Ngãi đầu tư xây dựng. Tính đến năm 2005, khu công nghiệp này có 8 doanh nghiệp nhà nước với số lao động trên người. Khu công nghiệp Quảng Phú chủ yếu là công nghiệp chế biến thực phẩm như đường, kẹo, sữa, nước uống, hải sản đông lạnh… Thành phố Quảng Ngãi cũng xúc tiến để hình thành hai cụm công nghiệp tập trung là cụm công nghiệp Thiên Bút với diện tích 50ha và cụm công nghiệp Yên Phú diện tích 30ha. Thống kê cho thấy đến hết năm 2005, thành phố Quảng Ngãi có cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 5 doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý, 4 doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý, doanh nghiệp cá thể, 46 doanh nghiệp tư nhân, tổng số cơ sở tăng so với năm 2000. Lao động sản xuất công nghiệp cá thể là người. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố theo giá hiện hành năm 2005 là triệu đồng, chiếm trên 2/3 giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh và tăng khoảng 3/5 so với chính thành phố năm 2000 triệu đồng7. Thương mại, dịch vụ, du lịch Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch ngày càng chiếm vị trí nổi bật ở thành phố Quảng Ngãi. Xưa ở địa bàn các làng quê nơi đây đều có chợ chợ Ông Bố phía tây, chợ Ba La phía đông, chợ Gò Quán phía nam, chợ Phú Mỹ Hạ… và lớn nhất là chợ Chánh Lộ, sau trở thành chợ tỉnh, nơi hội tụ việc mua bán của toàn tỉnh. Sách L’ Annam en 1906 chép “Chợ tỉnh Chánh Lộ xã cung cấp được khá tốt và có tầm quan trọng đến các vùng lân cận của thành”. Đến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí có ghi chép về số thuế của chợ tỉnh là đồng tiền Đông Dương, cao vượt trội so với các chợ khác trong tỉnh. Sách Địa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn xuất bản năm 1939 mô tả về không khí buôn bán ở đây “Thành phố Quảng Ngãi cũng là nơi hội hiệp các công sở lớn như Tòa sứ, dinh Quan Tuần, đồn Khố xanh… dân cư trù mật khoảng trên người. Con đường cửa Tây phố xá đông đúc, buôn bán đồ tạp hóa, quang cảnh ngày đêm có vẻ náo nhiệt”. Các nhà buôn ở thành phố hồi này phần lớn là Hoa kiều, Ấn kiều. Trong số các hiệu buôn của người Việt nổi tiếng có các hiệu Quảng Đông An, Quảng Hòa Tế, Mỹ Đông An, Lợi An, Phạm Hoè… Phía bắc tỉnh thành có bến Tam Thương, có sông Đào để ghe thuyền vào ra buôn bán sông Đào được đào từ năm 1938. Chợ tỉnh xưa xây dựng ở phía tây tỉnh thành, giữa vùng sầm uất nhất ở nội thị, sau này mở rộng ra đến phố Nguyễn Nghiêm ở phía nam. Ngoài chợ, việc buôn bán, làm dịch vụ rải rác ở khắp các phố phường. Xưa trong thời Pháp thuộc ở đô thị Quảng Ngãi, dịch vụ mới manh nha phát triển như dịch vụ xe kéo, xe ngựa, cắt tóc, may mặc. Cho đến nay, các dịch vụ trở nên đa dạng hơn nhiều và ngày càng tiếp cận với nhu cầu nhiều mặt của cuộc sống hiện đại. Đặc biệt sự phát triển của ngành dịch vụ ăn uống, giải trí, nhà nghỉ, khách sạn. Thành phố Quảng Ngãi vẫn là điểm đầu mối dẫn đến các điểm tham quan – du lịch trong tỉnh đi Sa Cần – Dung Quất, đi dầu mối Thạch Nham, đi Thiên Ấn – Sơn Mỹ – Mỹ Khê – Ba Làng An, đi Phú Thọ – Cổ Luỹ, đi Nhà lưu niệm Phạm Văn Đồng, đi Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ… đều trong khoảng vài ba mươi đến 60km. Năm 2005, có cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ với lao động. Thành phố Quảng Ngãi có Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc – Nam chạy qua. Ga Quảng Ngãi là ga chính trong tỉnh, phục vụ hành khách đi ra Bắc, vào Nam. Đường sắt được xây dựng từ thời Pháp thuộc, ga Quảng Ngãi hoàn thành từ năm 1935, bấy giờ quen gọi là ga Ông Bố gần chợ Ông Bố. Quốc lộ 1 đoạn qua thành phố Quảng Ngãi có tên là đường Quang Trung, sau này xây đường cao tốc ở phía đông gọi là đường tránh đông, có cầu Trà Khúc II xây dựng từ năm 2004. Từ thành phố Quảng Ngãi theo Quốc lộ 1 có thể vào Nam ra Bắc rất thuận tiện. Thời đường bộ chưa phát triển, đường thuỷ vẫn đóng vai trò quan trọng ở thành phố Quảng Ngãi, với đò ngang Trà Khúc nối đường Thiên Lý, đò dọc từ bến Tam Thương lên nguồn xuống biển. Về đường không, thời Pháp thuộc năm 1920, có một chiếc máy bay đáp thử xuống xã Thu Phố nay thuộc xã Quảng Phú, nơi mà sau này, trong thời kỳ đất nước bị chia cắt, chính quyền Sài Gòn đã xây dựng sân bay. Sân bay Quảng Ngãi thời kỳ này khá nhộn nhịp, nhưng kể từ sau năm 1975 đã ngưng hoạt động. Hoạt động giao thông – vận tải ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay chủ yếu dựa vào hệ thống đường sắt và đường bộ. Các dịch vụ, cơ sở hạ tầng khác Thời phong kiến, đường Thiên Lý Bắc – Nam đi qua thành phố Quảng Ngãi, nhưng ở đây không có dịch trạm. Thời Pháp thuộc, thực dân thiết lập “Nhà dây thép” trong nội thành Quảng Ngãi. Đến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, Nhà Bưu điện tỉnh được xây dựng ở vị trí ngày nay đường Phan Đình Phùng, Bưu điện thành phố nằm ở đường Quang Trung, có hệ thống phục vụ thông tin khá tốt trên địa hạt thành phố và trong toàn tỉnh. Số điện thoại thuê bao trên địa bàn thành phố đạt máy vào năm 2005. Nhà máy điện trước kia, sau này là Điện lực Quảng Ngãi có trụ sở trên đường Trần Hưng Đạo. Nguồn điện mới manh nha từ trước 1945, đến sau 1954 mới có sự phát triển nhất định nhưng còn rất hạn chế. Đến thời kỳ đất nước thống nhất, khi có điện lưới quốc gia, mới hoàn toàn phủ điện trên toàn thành phố. Mạng lưới điện ở thành phố Quảng Ngãi dần dần được cải tạo, nâng cấp để đảm bảo về kỹ thuật, an toàn, tiết kiệm. Lĩnh vực tài chính, từ thời Pháp thuộc ở địa hạt thành phố Quảng Ngãi cũng đã có ngân hàng cho vay nhưng còn nhỏ nhoi, không đáng kể. Hệ thống tài chính, ngân hàng của tỉnh đặt ở thành phố Quảng Ngãi trải qua thời gian, đến nay đã phát triển mạnh, bao gồm Ngân hàng Nhà nước nằm trên đường Nguyễn Thuỵ; Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Kho bạc Nhà nước đều nằm trên đường Hùng Vương – trục chính của thành phố; Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Phục vụ người nghèo nằm trên đường Trần Hưng Đạo – gần sát Ngã Năm cũ. Sự kinh doanh tài chính đã phát triển khá tốt. Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt động kinh tế của toàn tỉnh, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Thành phố đang trong quá trình “lột xác”, đô thị hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển chung. * * * Về văn hóa, thành phố Quảng Ngãi là trung tâm văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi xưa nay, còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cổ truyền quý báu. Khuôn viên Bệnh viện Đa khoa tỉnh đường Hùng Vương vốn là nền tháp Chánh Lộ, một tháp có tầm quan trọng trong hệ thống đền tháp Chăm, với phong cách độc đáo, gọi là phong cách Chánh Lộ. Từ thời Pháp thuộc, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở đây nhiều tượng đá độc đáo, phần lớn đưa về lưu giữ ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm thành phố Đà Nẵng và sau này trong khi đào móng, các hiện vật khác cũng xuất lộ, như các sư tử đá, tấm lanhtô đá có khắc văn bia bằng tiếng Chăm được đưa về Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi. Trải năm, sáu thế kỷ trên mảnh đất này, văn hóa Việt cũng lưu lại nhiều di tích quý giá. Đền Bùi Tá Hán nguyên xây dựng năm 1909 ở núi Phước Lãnh từ ngày có đền gọi là núi Ông hay núi Trấn Công, rộng rãi bề thế. Sau năm 1962, chính quyền Sài Gòn xây dựng Nhà máy Đường Quảng Ngãi ở đây, đền phải dời về Rừng Lăng, cách nửa cây số về hướng tây. Tại đây vốn có mộ Bùi Tá Hán, có bia mộ do 4 nhà nho nổi tiếng ở Quảng Ngãi đứng ra xây dựng từ năm 1849. Đền thờ còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng Bùi Tá Hán và tượng Xích Y hầu, 23 bản sắc phong của các triều vua phong cho Bùi Tá Hán và con trai là Bùi Tá Thế8. Thuở xưa, ở các làng xã đều có đình làng, nổi tiếng nhất là đình Chánh Lộ và đình Ba La. Đình Chánh Lộ được xây dựng rất quy mô, bề thế, nằm ở góc đông bắc của ngã tư chính. Năm 1936, sau dụ của vua Bảo Đại về việc thiết lập đô thị trung tâm Quảng Ngãi, một số kẻ buôn bán câu kết với viên Công sứ Pháp đương nhiệm định xóa sổ đình, nhập vào đô thị Quảng Ngãi. Nhưng dân làng Chánh Lộ đã đấu tranh quyết liệt để bảo vệ đình. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đình Chánh Lộ là nơi triển lãm tranh ảnh của tỉnh Lê Trung Đình. Đình Ba La làm bằng gỗ mít, rất rộng Rộng thình thình như cái đình Ba La – ngạn ngữ, sau Cách mạng tháng Tám cũng được tận dụng cho việc công. Đến năm 1947, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, cả hai đình này cùng với nhiều đình khác bị dỡ bỏ. Ngoài ra, còn có thể kể về đình làng Thu Phố, ở phía tây đường sắt hiện nay. Đình này có thể được dựng khá muộn, khoảng năm Canh Ngọ 1810 hoặc 1870, quanh có la thành, có bình phong, bên trái là nhà hội, bên phải là hưởng ẩm, toàn nhà tranh. Đình gần chợ ông Bố, mặt quay hướng tây, được tu bổ vào năm Khải Định thứ nhất 1916, nay không còn. Di tích thành quách thì có thành Quảng Ngãi, nay chỉ còn lại một ít dấu vết như bờ thành, hào thành. Ở khoảng giữa phường Chánh Lộ tại xóm Tư Văn có văn miếu huyện Chương Nghĩa. Văn miếu được xây dựng từ năm Tự Đức thứ 8 1855, do văn thân trong huyện quyên tiền cất dựng. Văn miếu có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, có xây thành bao quanh, trước cổng miếu có ghi 4 chữ “Văn kỳ tại tư” 文 其 在 斯 lấy từ sách Luận ngữ – có nghĩa là đây có thể là đất văn vậy. Bên trong có xây nhà bia, có tấm bia đá non nước, mặt trước cũng ghi bốn chữ “Văn kỳ tại tư”, mặt sau ghi niên đại dựng bia là năm Thành Thái thứ 9 1898. Thành phố Quảng Ngãi vốn bao gồm nhiều làng quê trù phú, ở đây cũng còn lưu lại nhiều kiến trúc nhà rường, rất tiêu biểu cho nền kiến trúc của người Việt ở Quảng Ngãi. Xét về di sản kiến trúc thì ở thành phố di sản kiến trúc Pháp không đáng kể, di sản kiến trúc đình không còn, nên di sản kiến trúc nhà rường còn tồn tại thật sự là di sản quý, rất đáng để bảo tồn. Văn hóa làng xã vẫn còn dấu ấn đậm nét, nhất là vùng ven, gồm các xã phía đông và các thôn ở phía tây thành phố như Nghĩa Dũng, Quảng Phú. Các tập tục, lễ hội, tín ngưỡng của cư dân nơi đây không khác mấy với các làng quê khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Trong di sản văn hóa phi vật thể trên địa hạt thành phố Quảng Ngãi ngày nay, đáng chú ý có các tri thức, kinh nghiệm của các làng nghề đường kẹo đặc sản, các món ăn đặc sản đường phèn, đường phổi, kẹo gương, cá bống sông Trà kho tiêu, cá thài bai, lịch… Trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, địa bàn thành phố Quảng Ngãi cũng để lại nhiều di tích quý báu như di tích Nhà lao Quảng Ngãi thời Pháp thuộc, di tích 4 dũng sĩ Nghĩa Dũng, di tích 68 liệt sĩ Xuân Mậu Thân… Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền văn hóa cách mạng đã từng bước hình thành ở thành phố Quảng Ngãi, với các hoạt động xây dựng đời sống mới, bãi bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ. Văn hóa đô thị bắt đầu manh nha, trong khi yếu tố văn hóa làng xã vẫn tiếp tục duy trì. Cũng từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, thành phố Quảng Ngãi là một trong những nơi sản sinh các văn nghệ sĩ có tên tuổi trong nước như họa sĩ Đường Ngọc Cảnh, Nghệ sĩ nhân dân Trà Giang, Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi, Nghệ sĩ ưu tú Văn Khánh, Giáo sư Tiến sĩ Lâm Tô Lộc, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm9. Dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn, thị xã Quảng Ngãi còn tiếp thu văn hóa du nhập từ các nước tư bản, trong đó không ít các sản phẩm độc hại, lai căng. Từ sau 1975, thị xã Quảng Ngãi lại tiếp tục xây dựng văn hóa mới theo hướng dân tộc, hiện đại. Việc xây dựng nếp sống văn minh đô thị, giữ gìn vệ sinh môi trường là một vấn đề nổi cộm trong thời kỳ đô thị hóa và cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ. Bên cạnh các thiết chế văn hóa của tỉnh, thành phố Quảng Ngãi có thư viện, có đài truyền thanh, nằm ở đường Quang Trung, các xã, phường có khu sinh hoạt văn hóa. Các di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh lần lượt được lập hồ sơ xếp hạng, tôn tạo. Phong trào văn nghệ, phong trào thể dục, thể thao quần chúng ở thị xã Quảng Ngãi được duy trì và phát triển. Phòng Văn hóa – Thông tin – Thể dục thể thao trụ sở ở đường Phan Chu Trinh là cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Cơ sở hạ tầng đô thị từng bước được cải thiện. Các công viên, quảng trường, nơi vui chơi giải trí đã được xây dựng như Công viên Ba Tơ phía nam cầu Trà Khúc, đê bao sông Trà, Quảng trường tỉnh, Khu thể thao Diên Hồng. Về giáo dục, vùng tỉnh lỵ xưa là địa bàn mà dân cư có tinh thần hiếu học, đã được ghi nhận là nơi có nhiều người đỗ đạt cao thời Nho học. Riêng làng Chánh Mông Chánh Lộ có đến 12 người thi đỗ Cử nhân trở lên trong thời nhà Nguyễn, là làng có số lượng khoa bảng cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi; làng Ba La có 5 người thi đỗ, làng Vạn Tượng có 2 người thi đỗ, làng Thu Phổ có 3 người thi đỗ. Trong số 22 người đỗ Cử nhân trở lên, có 1 Tiến sĩ Tạ Tương, 1 Phó bảng Lê Văn Vịnh, 3 Giải nguyên Bùi Phụ Truyền, Tạ Hàm, Phạm Trinh, 3 Á nguyên Nguyễn Duy Cung, Phạm Viết Duy, Đồng Cát Phủ. Trong số các nhà khoa bảng có Nguyễn Duy Cung là một chí sĩ Cần vương nổi tiếng về khí tiết, thể hiện trong bài Huyết lệ tâm thư10. Thời thuộc Pháp, thị xã Quảng Ngãi có các trường Nam Tiểu học, Cẩm Bàn, Mai Xưa. Thời kháng chiến chống Pháp, thị xã có Trường Trung học Lê Khiết thời kỳ mới thành lập. Thời chính quyền Sài Gòn quản lí, trên địa bàn thị xã tập trung nhiều trường Trung học của tỉnh, như các trường Trung học Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung học, Hùng Vương, Bồ Đề, Kim Thông, Chấn Hưng, trường Nông Lâm Súc. Sau 1975, thị xã Quảng Ngãi có các trường Cao đẳng Sư phạm, Trung cấp Y tế, Cao đẳng Cộng đồng thuộc hệ chuyên nghiệp; các trường Trung học phổ thông Trần Quốc Tuấn, Lê Khiết, Lê Trung Đình, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trung học nội trú dân tộc… và là nơi đang xây dựng Trường Đại học Phạm Văn Đồng. Mỗi xã phường đều có trường phổ thông cơ sở. Học sinh trên địa bàn thị xã học giỏi, nhiều người thành đạt. Đây cũng là quê hương của những nhà nghiên cứu tên tuổi như các Giáo sư Tiến sĩ Lâm Tô Lộc, Nguyễn Tấn Đắc, Tiến sĩ Phan Thị Phi Phi… Về y tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi đóng Bệnh viện Đa khoa tỉnh trên đường Hùng Vương, có Trung tâm y tế thành phố và các đơn vị chăm sóc sức khỏe của tỉnh, của thành phố. Để chăm sóc sức khoẻ, từ xưa người dân thị xã chủ yếu dùng Đông y, đến thời Pháp thuộc du nhập thêm Tây y. Các cơ sở Đông, Tây y song song tồn tại đến nay. Việc thực hiện công tác dân số, gia đình khá tốt. Về vấn đề nhân lực, thị xã Quảng Ngãi là nơi tập trung cao nhân lực của toàn tỉnh và có xu hướng ngày càng phát triển mạnh lao động trí tuệ. Tuy vậy, một bộ phận quan trọng trong cư dân lao động chân tay, trong đó số lao động nông nghiệp vẫn chiếm một phần không nhỏ. Trong các vấn đề xã hội ở thành phố Quảng Ngãi, vấn đề công ăn việc làm đặc biệt nổi cộm, vì có số người thiếu việc làm khá đông. Tình trạng nghèo đói, các tệ nạn xã hội cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm. Số hộ nghèo ở thành phố còn khoảng 4,85% theo chuẩn cũ, tuy nhiên, việc vượt lên cuộc sống cao hơn còn là một trở lực lớn. Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung nhiều thành phần dân cư trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi, các dịch vụ phát triển đồng thời kéo theo một số tệ nạn xã hội như trộm cắp, mại dâm, cờ bạc… đòi hỏi phải được chú ý và tìm ra biện pháp quản lý, giải quyết. 1 Số liệu của Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005. 2 Xem chương XXV Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử – văn hoá, danh thắng. 3 Nguồn Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi. 4 Theo Nguyễn Đóa – Nguyễn Đạt Nhơn trong tập Địa dư tỉnh Quảng Ngãi sđd thì vào thời điểm 1938, trong tổng số người của tỉnh Quảng Ngãi có 482 người Tàu, 157 người Pháp, 5 người Ấn Độ; trong đó “người Pháp hầu hết là những quan văn, võ trú tại tỉnh lỵ hoặc tại các cửa, các đồn”, người Tàu chủ yếu trú ở tỉnh lỵ và Thu Xà. 5 Cao Chư Từ tỉnh thành đến thành phố Quảng Ngãi, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr. 80, 81, 82. 6 Nguyễn Đóa – Nguyễn Đạt Nhơn Địa dư tỉnh Quảng Ngãi, Imprimerie Marade Vien-de Huế, 1939. 7 Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi năm 2005 so với Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi có sự chênh lệch chút ít. Riêng số liệu về lao động sản xuất công nghiệp cá thể, chúng tôi theo số liệu trong Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi. 8 Xem Chương XXV Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử – văn hoá, danh thắng. 9 Xem Chương XXVI Văn học và Chương XXVII Nghệ thuật. 10 Xem Chương XI Các nhân vật lịch sử tiêu biểu và Chương XXVI Văn học.
gioi thieu ve quang ngai